Bản án 116/2020/HS-PT ngày 19/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 116/2020/HS-PT NGÀY 19/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 945/2019/TLPT-HS ngày 23 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Bùi Thị Thu A do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 261/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.

* Bị cáo có kháng cáo:

BÙI THỊ THU A, sinh ngày 11/6/19XX tại H N; ĐKHKTT và nơi cư trú: Đội X thôn Đ T, xã L T, huyện M Đ, TP Hà Nội, nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Xuân Đ và bà Đinh Thị M; có chồng Nguyễn Văn S và 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Thị Thu A là nhân viên massage tự do, thỉnh thoảng có đến massage tại nhà theo yêu cầu cho chị Lê Thị T, sinh năm: 19XX; HKTT: số X dãy H, lô Y, phường T V, quận N T L, thành phố Hà Nội.

Vào khoảng 19h30’ ngày 24/7/2019, A đến nhà massage cho chị T tại phòng ngủ ở tầng 3, khi làm massage được khoảng 25 phút, A nhìn thấy 01 chiếc túi xách màu đen đặt dưới sàn nhà phía đầu giường gần tủ quần áo không kéo khóa, bên trong túi xách có một chiếc ví da màu nâu cũng không khóa hở ra một sấp tiền mệnh giá 500.000 đồng nên A đã nảy sinh ý định trộm cắp. A thấy chị T đang nằm sấp không quan sát được và A nghĩ chị T ngủ, chiếc túi xách để phía bên phải của chị T gần vị trí của A nên A đã nhoài người kéo túi xách về phía mình, dùng tay trái thò vào ví lấy một số tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng sau đó cho vào bụng dưới bên trong quần lót để cất giấu rồi A đẩy túi xách về vị trí ban đầu và tiếp tục massage thêm khoảng 5 - 10 phút thì kết thúc. Lúc này chị T lấy ví để trả tiền thì phát hiện thiếu 14.500.000 đồng nên đã cùng A đi xuống tầng 2 hỏi chồng là anh Nguyễn Đăng Th, sinh năm 19XX, anh Th nói không lấy. Chị T hỏi A nhưng A không thừa nhận việc trộm tiền và tự nguyện cho chị T kiểm tra người, túi xách. Chị T sau khi kiểm tra người A thì phát hiện bên trong quần lót của A có 29 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tổng cộng: 14.500.000 đồng nên đã trình báo cơ quan Công an.

Tại cơ quan điều tra, Bùi Thị Thu A xin đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình như đã nêu trên.

Ngày 30/7/2019, Cơ quan CSĐT Công an quận Nam Từ Liêm đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 121 trao trả số tiền 14.500.000 đồng cho chị Lê Thị T, chị T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 261/2019/HS-ST ngày 31 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Bùi Thị Thu A phạm tội “trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bùi Thị Thu A 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại theo quy định của pháp luật.

Ngày 04/11/2019 bị cáo Bùi Thị Thu A có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa bị cáo Bùi Thị Thu A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã quy kết. Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo lần đầu phạm tội; sau khi bị bắt đã làm đơn đầu thú; hiện tại bị cáo đang nuôi con còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nhân thân bị cáo, xem xét kháng cáo của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm:

- Tài sản bị cáo chiếm đoạt 14.500.000 đồng đã được thu hồi ngay trả bị hại song cấp sơ thẩm lại áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là không chính xác, cần rút kinh nghiệm.

- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Thị Thu A, sửa một phần bản án sơ thẩm. Cụ thể áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Thị Thu A 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án; giao bị cáo về chính quyền địa phương quản lý giáo dục trong thời gian thử thách.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo Bùi Thị Thu A đúng về mặt chủ thể kháng cáo và trong thời hạn của luật định nên được chấp nhận để xem xét.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Thị Thu A tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 24/7/2019, tại số X lô Y ngõ XX, tổ dân phố Y Phường T V, quận N T L, TP Hà Nội, Bùi Thị Thu A đã lợi dụng sự sơ hở của chủ quản lý tài sản, thực hiện hành vi lén lút trộm cắp 14.500.000 đồng của chị Lê Thị T. Hành vi nêu trên của bị cáo Bùi Thị Thu A đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo Bùi Thị Thu A thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án; bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu; giá trị tài sản trộm cắp không lớn, bị cáo đã trả lại tiền cho bị hại; sau khi phạm tội đã đến cơ quan công an đầu thú đã xử phạt 06 tháng tù đối với bị cáo Bùi Thị Thu A về tội “Trộm cắp tài sản” là phù hợp song buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội là không cần thiết bởi lẽ bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi ngay trả bị hại, hiện không còn thiệt hại; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đang phải nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Do vậy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Thị Thu A, cho bị cáo được hưởng biện pháp chấp hành án có điều kiện, được cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương là cũng đủ điều kiện để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Tng tài sản bị cáo Bùi Thị Thu A chiếm đoạt của bị hại trong vụ án là số tiền 14.500.000 đồng đã được Cơ quan điều tra thu hồi ngay và hoàn trả cho bị hại, bị cáo không phải là tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả song cấp sơ thẩm lại áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ là “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là không chính xác, cần rút kinh nghiệm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

[4] Bị cáo kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự,

1. Sửa một phần bản án sơ thẩm:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Thị Thu A 06 (Sáu) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 19/02/2020 về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Giao bị cáo Bùi Thị Thu A cho UBND xã L T, huyện M Đ, TP Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Bị cáo Bùi Thị Thu A không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 116/2020/HS-PT ngày 19/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:116/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;