Bản án 116/2019/HSST ngày 09/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH TH

BẢN ÁN 116/2019/HSST NGÀY 09/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 9 tháng 4 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 115/2019/HSST, ngày 28 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2019/QĐXXST-HS ngày 27/03/2019 đối với bị cáo:

Trần Xuân B, Sinh ngày 16/8/1969; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Tổ 9, phường Đồng Quang, thành phố TH, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông: Trần Xuân Thành, con bà: Chu Thị Hằng ( đều đã chết); Gia đình có 10 anh, chị em, bị cáo là con thứ B; Vợ: Hà Thị Lan Anh, sinh năm 1971, không có con.

Tiền án: 01

- Tại Bản án số 370/HSST ngày 23/12/2016 của Tòa án nhân dân thành phố TH xử phạt 3 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hiện đang được hoãn chấp hành hình phạt tù, chưa thi hành án.

Tiền sự: Không Nhân thân:

+ Tại Bản án số 292/1997/HSST ngày 14/11/1997 của Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xử phạt 06 tháng tù về tội “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

+ Tại Bản án số 253/1998/HSST ngày 10/11/1998 của Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”.

+ Tại Bản án số 13/2001/HSST ngày 16/02/2001 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh TH xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Tại Bản án số 29/2003/HSST ngày 19/3/2003 của Tòa án nhân dân tỉnh TH xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ra trại ngày 08/7/2010.

Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2019 đến ngày 15/02/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang bảo lĩnh). (Có mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến:

1. Ông Hà Việt Dg, sinh năm 1962 (Vắng mặt tại phiên tòa)

HKTT: Tổ 19, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố TH, tỉnh TN.

2. Ông Nguyễn Quang T, sinh năm 1973 (Vắng mặt tại phiên tòa)

HKTT: Tổ 4, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố TH, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hôi 17 giờ 30 phút, ngày 11/01/2019, tổ công tác cua Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh TH đang làm nhiệm vụ tại trục đường Lương Ngọc Quyến, thuộc tổ 19, phường Đồng Quang, thành phố TH thì phát hiện thấy một người đàn ông ( sau xác định là Trần Xuân B) có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy, tổ công tác đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trong túi áo khoác bên trái B đang mặc có 02 túi nilon màu trắng bên trong mỗi túi đều chứa chất bột màu trắng, B khai đó là Heroine của B. Tổ công tác đã tiến hànhniêm phong vật chứng, lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ của B: 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO màu xanh đã qua sử dụng.

Cùng ngày cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh TH tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Xuân B, tại tổ 9, phường Đồng Quang, thành phố TH kết quả: Không phát hiện thu giữ gì.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh TH tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của B là 74,69 gam, trích 2,29 gam ký hiệu G gửi giám định, còn 74,4 gam Heroine niêm phong ký hiệu L lưu khi vật chứng của Công an thành phố TH.

Tại Kết luận giám định số 295/KL-PC09 ngày 18/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu G gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 74,69 gam.

Tại cơ quan điều tra, Trần Xuân B khai nhận: Khoảng 15 giờ, ngày 11/01/2019, B đi đến khu vực Bến xe khách TH cũ thuộc phường Quang Trung, thành phố TH để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây B gặp người bạn cũ tên Tiến ( không rõ lai lịch, địa chỉ) qua nói chuyện, Tiến nói với B là bạn của Tiến có Heroine bán nên B hỏi mua và hẹn Tiến đến 17 giờ cùng ngày Tiến và bạn của Tiến đến cửa nhà của B để bán ma túy cho B. Khoảng 17 giờ 25 phút cùng ngày, B đi bộ từ nhà ra khu vực đầu ngõ nhà B thuộc, tổ 9, phường Đồng Quang, thành phố TH thì gặp Tiến đang đứng cạnh một chiếc ô tô con loại 4 chỗ, màu nâu ( không rõ biển kiểm soát). Tiến bảo B vào trong xe để mua bán ma túy. Khi vào trong xe, B gặp một người đàn ông không quen biết và hỏi mua khoảng 75 gam Heroine với giá 40.000.000đ, người này đồng ý. B cầm số ma túy cất giấu vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc. B nói với Tiến và người bạn của Tiến chờ B vào nhà kiểm tra chất lượng Heroine rồi mang tiền ra trả. Khi B bước xuống xe thì bị tổ công tác của Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh TH phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 121/CT-VKSTPTN ngày 28/02/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố bị cáo Trần Xuân B về tội ” Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo Khoản 3 Điều 249 BLHS năm 2015.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: điểm b khoản 3 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS xử phạt: bị cáo Trần Xuân B từ 12 đến 13 năm tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo B. Áp dụng Điều 56 bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai bản án.

- Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu G; 01 bì niêm phong ký hiệu L(bên trong chứa ma túy)

+ Hoàn trả bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu xanh đã qua sử dụng, số IMEI1: 861890035529959; số IMEI 2: 861890035529942 do bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội.

- Áp dụng Điều 136 BLTTHS 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận bị cáo B không tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo B nói lời sau cùng, bị cáo hiện tại mắc bệnh hiểm nghèo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố TH trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Với chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 11/01/2019, tại khu vực tô 09, phường Đồng Quang, thành phố TH, Trần Xuân B đang tàng trữ 74,69 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh TH phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo Trần Xuân B đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 249 BLHS năm 2015.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và hình phạt viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Điều 249 BLHS quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ... thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm dến 15 năm ....

b, Heroine...có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam

[3]. Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước.Việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhân thân rất xấu, đã từng bị kết án về tội liên quan đến ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục sa vào con đường nghiện ngập. Bị cáo có 01 tiền án về tội ”Mua bán trái phép chất ma túy”, đang được hoãn chưa thi hành án thì tiếp tục phạm tội. Lần phạm tội này thuộc trường hợp Tái phạm nên phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 BLHS; Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo HĐXX thấy cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng, cách ly xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt và có ích cho xã hội. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình, bản thân bị cáo hiện tại mắc bệnh hiểm nghèo, nên xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Mức hình phạt mà vị đại diện VKS đề nghị đối với bị cáo là phù hợp cần được chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS, nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp, bản thân bị cáo hiện tại đang mắc bệnh hiểm nghèo, không có tài sản gì, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu G; 01 bì niêm phong ký hiệu L.

+ Hoàn trả cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu xanh đã qua sử dụng, số IMEI1: 861890035529959; số IMEI 2: 861890035529942 do bị cáo không sử dụng điện thoại trên để thực hiện việc phạm tội

[7] Án phí; Quyền kháng cáo: Bị cáo B phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, B khai mua của một người đàn ông tên Tiến và một người đàn ông không quen biết (bạn của Tiến). Quá trình điều tra không xác định được lai lịch của những người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm b, khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Xuân B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Bị cáo Trần Xuân B: 13 (Mười ba) năm tù.

- Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015. Tổng hợp hình phạt của Bản án số 370/HSST ngày 23/12/2016 của Tòa án nhân dân thành phố TH xử phạt 03 (Ba) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là: 16 (Mười sáu) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày đi thi hành bản án, được trừ số ngày tạm giữ, tạm giam của bản án số 370/HSST ngày 23/12/2016 từ ngày 26/8/2016 đến ngày 29/9/2016 và trừ số ngày tạm giữ, tạm giam của bản án này từ ngày 11/01/2019 đến ngày 15/02/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu G; 01 bì niêm phong ký hiệu L.

+ Hoàn trả bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh đã qua sử dụng có số IMEI1: 861890035529959; số IMEI 2: 861890035529942 để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố TH, biên bản giao nhận vật chứng số 190 ngày 04/03/2019)

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Trần Xuân B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 116/2019/HSST ngày 09/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:116/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;