Bản án 115/2020/HSST ngày 29/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 115/2020/HSST NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 116/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn T - Sinh năm 1982; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: bản H, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ, đảng phái: Không; Con ông Trần Văn Đ và bà Nguyễn Thị V; Có vợ nhưng đã ly hôn, có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 25/11/2010 bị TAND huyện Sông Mã tuyên phạt 24 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ 09/6/2020 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 02 giờ 40 phút ngày 09/6/2020 Tổ công tác Công an thị trấn Sông Mã đang thực hiện công tác tuần tra đảm bảo an ninh trật tự khu vực tổ dân phố 4, thị trấn Sông Mã phát hiện Trần Văn T đang đi bộ với Lường Thị H và Bùi Thị M có biểu hiện nghi vấn về tội phạm. Tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra hành chính, qua kiểm tra phát hiện tại túi quần đùi bên phải đang mặc của T có 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 43 viên nén màu hồng và 01 vỏ hộp kẹo nhãn hiệu XYLITOL bên trong có 01 gói nilon màu xanh chứa 40 viên nén hình tròn màu hồng (Thịnh khai nhận là Hồng phiến). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định.

Ngày 09/6/2020 tại Công an huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng, trích mẫu giám định kết quả: 43 viên nén màu hồng trong gói nilon màu trắng có khối lượng 4,38gam, trích 05 viên có khối lượng 0,50gam ký hiệu T1, vật chứng còn lại 38 viên có khối lượng 3,88gam ký hiệu H1. 40 viên nén màu hồng trong hộp kẹo nhãn hiệu XYLITOL có khối lượng 4,07gam, trích 05 viên có khối lượng 0,5gam ký hiệu T2, vật chứng còn lại 35 viên có khối lượng 3,57gam ký hiệu H2.

Tại Kết luận giám định số 963 ngày 15/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu T1, T2 đều là ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là T1=0,50gam, T2=0,50gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 8,45gam, loại Methamphatamine”.

Quá trình điều tra Trần Văn T khai nhận: Khoảng giữa tháng 5/2020 T đi đến đường biên giới Việt Nam - Lào thuộc địa phận bản Cỏ, xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã để tìm mua ma túy, khi đi T mang theo số tiền 1.000.000đ. Đến đường biên giới, T gặp một người đàn ông người Lào khoảng 50 tuổi đang đi bộ ngược chiều, qua trò chuyện, T hỏi mua được của người này 200 viên Hồng phiến (gồm 198 viên màu hồng và 02 viên màu xanh) được đựng trong gói nilon màu xanh với giá 1.000.000đ. Qua kiểm tra có 02 viên nén màu xanh không sử dụng được nên đã vứt đi, còn lại 198 viên T mang về nhà cất giấu để sử dụng dần. Từ ngày mua được Hồng phiến đến ngày 08/6/2020 Thịnh đã sử dụng hết 108 viên, còn lại 90 viên T chia ra 02 túi riêng biệt (gồm 01 túi nilon màu trắng chứa 43 viên; 47 viên T vẫn để trong túi nilon màu xanh ban đầu cho vào trong vỏ hộp kẹo nhãn hiệu XYLITOL) rồi cất số ma túy trên vào túi quần đùi bên phải đang mặc.

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 09/6/2020, T đi nhờ xe của một người đàn ông không quen biết lên thị trấn Sông Mã chơi. T gặp và rủ Bùi Thị M, trú tại bản Trại Giống, xã Nà Nghịu, huyện Sông Mã và Lường Thị H, trú tại bản Hải Sơn, xã Chiềng Khoong thuê phòng trọ ở nhà nghỉ Hoài An thuộc tổ dân phố 3, thị trấn Sông Mã để cùng sử dụng ma túy. Tại phòng 101, T lấy 01 vỏ chai nước để làm tẩu, sau đó đi vào nhà vệ sinh lấy ra 07 viên Hồng phiến từ túi nilon màu xanh, số Hồng phiến còn lại T tiếp tục cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc; sau đó T cùng M và H sử dụng hết 07 viên đã bỏ ra. Sử dụng ma túy xong, T rủ M và H ra quán ăn Doanh Vát ở tổ dân phố 3, thị trấn Sông Mã để ăn cháo đêm. Khi đi T cầm theo tẩu tự chế vứt dọc đường, khi gần tới quán cả ba người bị Công an thị trấn Sông Mã làm nhiệm vụ, kiểm tra hành chính thì phát hiện thu giữ toàn bộ vật chứng.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 115/CT-VKS ngày 16/9/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Trần Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt Trần Văn T từ 05 năm 06 tháng - 06 năm tù. Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại và vật chứng liên quan. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Buộc bị cáo chịu án phí. Tuyên quyền kháng cáo.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với toàn bộ nội dung truy tố của Viện kiểm sát, thừa nhận hành vi của mình đã vi phạm pháp luật, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã; không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

 - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 02giờ50, ngày 09/6/2020, bắt quả tang Trần Văn T có hành vi cất giấu 83 nén màu hồng nghi là ma tuý.

- Kết luận giám định số 693 ngày 15/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận về số chất bột đã thu giữ được của Thịnh.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện tội phạm. Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS là đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 09/6/2020 tại tổ dân phố 4, thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, Công an thị trấn Sông Mã đã phát hiện Trần Văn T có hành vi cất giấu 8,45 gam Methamphetamine mục đích sử dụng.

Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc Tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng đã bất chấp pháp luật cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - Là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với số ma tuý và vật chứng liên quan cần tịch thu tiêu huỷ.

[7] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đàn ông bị cáo khai đã mua ma tuý cho bị cáo, quá trình điều tra do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này, nên không có căn cứ để xác minh điều tra mở rộng vụ án.

Đối với Bùi Thị M và Lường Thị H là người cùng sử dụng ma túy với bị cáo. Quá trình điều tra xác đinh được M và H không biết việc T cất giấu ma túy trong người, không góp tiền mua ma túy cùng T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã không có căn cứ xác định M và H là đồng phạm trong vụ án. Do M là người sử dụng ma túy nên ngày 14/6/2020 Công an xã Nà Nghịu đã ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 03 tháng. Đối với H do đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã nhưng không từ bỏ được ma túy nên ngày 16/6/2020 Tòa án nhân dân huyện Sông Mã đã Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Đối với Đỗ Hoài A (chủ nhà nghỉ Hoài An), khi cho thuê phòng nghỉ chị A không biết việc các đối tượng thuê phòng để sử dụng ma túy nên cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý là đảm bảo theo quy định.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS: Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 05 năm 06 tháng (năm năm sáu tháng) tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày 09/6/2020.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự: điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch khoản thu tiêu hủy:

- 7,45 gam Methamphetamine.

- 01 mảnh nilon màu trắng.

- 01 hộp kẹo nhãn hiệu XYLITOL.

- 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

(các vật chứng được đựng trong phong bì niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 027850).

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/9/2020 giữa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo Trần Văn T chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 29/9/2020./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 115/2020/HSST ngày 29/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:115/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;