Bản án 115/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 115/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 126/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 910/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Đào Thị Tuyết M, sinh năm 1985 tại Hải Phòng. ĐKHKTT: số 79/240 Tô Hiệu, phường T, quận L, thành phố H; Chỗ ở: số 58/889 Nguyễn Văn Linh, phường V, quận L, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; giới tính: Nữ dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Ngọc T và bà Chu Thị T; bị cáo có chồng là Nguyễn Minh C (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: 01 tiền án tại Bản án số 141/2012/HSST ngày 28/8/2012 Tòa án nhân dân quận L, thành phố H xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/7/2019 đến ngày 16/7/2019 chuyển tạm giam, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Duy Nhân - Luật sư Văn phòng Luật sư Tâm Nhân và công sự thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hải Phòng; có mặt.

Người làm chứng: Anh Lê Mạnh C, sinh năm 1979; địa chỉ: Thôn H, xã V, huyện V, thành phố H, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 20 phút ngày 12/7/2019, tại khu vực trước cổng nhà số 58/889 Nguyễn Văn Linh, phường V, quận L, thành phố H, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận L, thành phố Hải Phòng bắt quả tang Lê Mạnh C, sinh năm 1979, ĐKTT: Thôn H, xã V, huyện V, thành phố H đang có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ tại túi áo ngực bên trái của C 01 gói giấy màu trắng dạng giấy vở học sinh, trong chứa chất bột màu trắng. C khai số ma túy bị thu giữ C vừa mua của đối tượng tên M, chỗ ở: số 79/240 Tô Hiệu - Trại Cau - Lê Chân - Hải Phòng với giá 100.000 đồng.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đào Thị Tuyết M, Cơ quan điều tra thu giữ: 01 hộp nhựa màu vàng có nắp đóng mở ghi nhãn hiệu bơ Tường An bên trong có 29 gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng; 01 túi vải màu trắng bên trong có 01 túi nilon trắng chứa chất bộ màu trắng dạng cục và 03 túi nilon màu trắng chứa chất bột màu trắng dạng cục; 01 cân điện tử màu nâu, 05 vỏ túi nilon màu trắng, 02 lưỡi dao lam chưa qua sử dụng; 01 (một) bộ sử dụng ma tuý tự chế và số tiền 350.000 đồng (trong đó có 100.000 đồng M vừa bán ma túy cho C).

Tại bản Kết luận giám định số 390/KLGĐ (Đ6) ngày 14/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Lê Mạnh C là ma túy, khối lượng 0,0498 gam, là loại: Heroine (bút lục 40).

Tại bản Kết luận giám định số 391/KLGĐ (Đ6) ngày 15/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng thu giữ khi khám xét chỗ ở của Đào Thị Tuyết M là ma túy, khối lượng 32,235 gam, là loại: Heroine (bút lục 46).

Tại Cơ quan điều tra, Đào Thị Tuyết M khai nhận: Khoảng 19 giờ 30 phút cách ngày bị bắt khoảng 5 – 6 ngày, M đang quét dọn sân nhà thì phát hiện tại mép bờ sông cạnh tường bếp nhà M (trong khuôn viên đất nhà M) có một bọc nilon màu đen bên trong có 01 túi vải màu trắng đựng 04 túi nilon nhỏ màu trắng có chứa chất bột dạng cục (M biết đó là Heroin), 01 cân điện tử, nhiều vỏ túi nilon trắng và 02 lưỡi dao lam. M nhặt mang về nhà cất giấu trong túi áo treo trên cây treo quần áo trong phòng ngủ. Đến tối ngày 11/07/2019, M lấy ra 01 túi Heroine, cắt Heroine thành các cục nhỏ và bọc bằng giấy vở học sinh được 30 gói Heroine, sau đó cất vào 01 hộp nhựa có nắp in nhãn hiệu Bơ Tường An và cho vào trong tủ kê ngoài sân trước cửa nhà. Số Heroine còn lại trong túi nilon, M hàn mép lại như cũ rồi để vào túi vải cùng 03 túi nilon đựng Heroine và cất trong túi áo treo trên cây treo quần áo trong phòng ngủ. M dự định bán với giá 100.000VNĐ/gói và 2.000.000VNĐ/chỉ Heroine (khoảng 3,75 gam). Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 12/7/2019, có một thanh niên (sau này M mới biết tên là C) đến hỏi mua 01 gói Heroine, M đồng ý bán với giá là 100.000 đồng. C đưa M 100.000 đồng, M cầm tiền và lấy 01 gói Heroine đưa cho C. C nhận gói Heroine và đi ra cổng thì bị cơ quan Công an bắt giữ. Đây là lần đầu tiên M bán ma túy cho C, ngoài ra M chưa bán cho ai khác. Bộ sử dụng ma tuý tự chế là của M, mục đích để sử dụng ma tuý đá.

Ngoài ra C còn khai trước đó C đã mua 01 gói Heroine của Đào Thị Tuyết M với giá 100.000 đồng để sử dụng cho bản thân, nhưng C không nhớ thời gian cụ thể. Xét hỏi, M chỉ nhận 01 lần bán Heroine cho C như đã khai ở trên, không thừa nhận việc bán Heroine trước đó như lời khai của C, ngoài lời khai của C không có chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để kết luận M đã bán 02 lần ma túy cho C.

Vật chứng gồm: số ma túy và mẫu vật còn lại sau giám định; 01 bộ sử dụng ma tuý tự chế; 05 vỏ túi nilon, 02 lưỡi dao lam, 01 cân điện tử, 01 túi vải trắng, 01 áo màu xanh có in hoa; số tiền 350.000 đồng – chuyển Cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.

Tại bản Cáo trạng số 123/CT-VKS-P1 ngày 08 tháng 11 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Đào Thị Tuyết M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đào Thị Tuyết M: 16 năm đến 17 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt tiền bị cáo 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) để sung công quỹ Nhà nước. Đề nghị xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo nêu quan điểm: Đng ý với tội danh và điều luật mà Kiểm sát viên áp dụng để xét xử bị cáo. Tuy nhiên, hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, bị cáo mua bán ma túy để kiếm tiền tiếp tế cho mẹ đang bị tạm giam và nuôi con nhỏ. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xử bị cáo mức án thấp nhất và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Bị cáo nói lời sau cùng mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm được về chăm sóc gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh

[2] Lời khai của bị cáo Đào Thị Tuyết M tại phiên toà và tại Cơ quan điều tra phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Ngày 12/7/2019, Đào Thị Tuyết M đã có hành vi bán 0,0498 gam Heroine cho Lê Mạnh C. Ngoài ra, bị cáo còn có hành vi cất giấu 32,235 game Heroine tại nhà nhằm mục đích bán kiếm lời. Do đó, Cáo trạng số 123/CT-VKS-P1 ngày 08/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Đào Thị Tuyết M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Tính chất của vụ án là đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước mà còn gây mất trị an tại địa phương; là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm khác trong xã hội và ảnh hưởng xấu đến đời sống nhân dân. Vì vậy, cần phải xét xử và tuyên phạt một mức án nghiêm mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

- Về tình tiết định khung hình phạt

[4] Tổng số ma túy bị cáo Đào Thị Tuyết M đã bán và tàng trữ nhằm mục đích bán là 32,2848 gam Heroine. Do đó, bị cáo bị xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung tăng nặng là “Heroine có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt

[5] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Nhân thân bị cáo đã có 01 tiền án về tội phạm rất nghiêm trọng, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian dài mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục cải tạo bị cáo thành người có ích và góp phần đấu tranh phòng chống các loại tội phạm về ma túy đang ngày càng gia tăng trong xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo mua bán ma túy nhằm mục đích kiếm lời nên cần thiết phải tuyên phạt bị cáo một khoản tiền để sung ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[7] - Về thu lợi bất chính: Bị cáo đã bán ma túy cho anh Lê Mạnh C và thu lợi bất chính số tiền 100.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải tịch thu số tiền 100.000 đồng trên để sung công quỹ Nhà nước.

- Về xử lý vật chứng:

[8] Số ma túy và mẫu vật còn lại sau giám định là 02 phong bì đóng dấu niêm phong số 390/2019/PC09 và 391/2019/PC09 cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với số tiền 250.000 đồng thu giữ của bị cáo là tiền bị cáo đi làm thuê hợp pháp mà có được nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[10] Đối với 01 bộ sử dụng ma túy tự chế; 05 vỏ túi nilon; 02 lưỡi dao lam; 01 cân điện tử; 01 túi vải trắng; 01 áo màu xanh có in hoa là công cụ bị cáo sử dụng vào việc mua bán và sử dụng ma túy. Hội đồng xét xử xét thấy số vật chứng trên không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[11] Về án phí và quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo Bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đào Thị Tuyết M 17 (mười bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 13/7/2019. Phạt tiền bị cáo 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì đóng dấu niêm phong số 390/2019/PC09 và 391/2019/PC09; 01 bộ sử dụng ma túy tự chế; 05 vỏ túi nilon; 02 lưỡi dao lam; 01 cân điện tử; 01 túi vải trắng; 01 áo màu xanh có in hoa

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng).

- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án số tiền 250.000 (Hai trăm năm mươi nghìn) đồng đã thu giữ của bị cáo.

(Đặc điểm chi tiết được thể hiện theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/11/2019 và biên lai thu tiền số 0001441 ngày 11/11/2019 tại Cục thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Đào Thị Tuyết M phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 61; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 115/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:115/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;