Bản án 115/2017/HNGĐ-ST ngày 05/09/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 115/2017/HNGĐ-ST NGÀY 05/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 05 tháng 9 năm 2017 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 946/2016/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 9 năm 2016 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 260/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 ngày 7 tháng 2017, Quyết định hoãn phiên tòa số 194/2017/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thu H, sinh năm 1978;

Nơi cư trú: C7/30H24 Đường A, ấp 4, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Phạm Huỳnh T, sinh năm: 1972;

Nơi cư trú: C7/17B37 Đường A, ấp 4, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

 (Bà H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, ông T vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 09/8/2016, bản tự khai 14/9/2016, nguyên đơn Bà Trần Thị Thu H trình bày:

Bà và ông Phạm Huỳnh T quen biết, tự tìm hiểu và bắt đầu chung sống với nhau vào năm 1996, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện G, tỉnh Tiền Giang vào năm 1996. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 10 năm, đến năm 2006 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do ông T nghiện cờ bạc, cá độ gây nợ nần, không chăm lo cho con cái. Từ tháng 02/2016 vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên bà yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà xác nhận bà và ông T có 02 con chung tên Phạm Trần Tuyết G, sinh ngày 08/9/1996 và Phạm Trần Tiến P, sinh ngày 26/9/2005. Trẻ G đã trưởng thành, hiện nay đang đi học và đi làm, thuê nhà trọ sống riêng. Hiện trẻ P đang sống cùng với bà. Khi ly hôn bà có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng trẻ P và không yêu cầu ông T cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà xác nhận không có.

Do bận đi làm xa nên bà có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt.

Bị đơn ông Phạm Huỳnh T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến giải quyết vụ án về nội dung như sau:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ Điều 8, 9, 51, 56, 81 và 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể:

- Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà Trần Thị Thu H với ông Phạm Huỳnh T.

- Về con chung: Giao trẻ Phạm Trần Tiến P, sinh ngày 26/9/2005 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: Ghi nhận các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà H chịu án phí sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [2] Bà Trần Thị Thu H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Phạm Huỳnh T. Ông T có nơi cư trú tại huyện Bình Chánh nên căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

 [3] Về sự vắng mặt của đương sự: Bà H có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vằng mặt, ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà H, ông T theo quy định điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

 [4] Về quan hệ vợ chồng: Ông Phạm Huỳnh T và Bà Trần Thị Thu H chung sống có đăng ký kết hôn và được xã H, huyện G, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 08/96 Quyển số 01 ngày 06/8/1996. Do đó, có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà H là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [5] Khoản 1 Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.”

 [6] Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.”

 [7] Theo kết quả xác minh của Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh về xác minh tình trạng hôn nhân cho biết: bà H và ông T bỏ đi đâu không rõ, Ủy ban không có tiếp nhận đơn giải quyết mâu thuẫn về hôn hân giữa bà H và ông T. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà H xác nhận bà và ông T chung sống không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, ông bà đã sống ly thân từ thàng 02/2016 cho đến nay. Mặt khác, ông T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng nhưng vẫn không đến Toà án tham gia tố tụng để Toà án hoà giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này chứng tỏ giữa ông T và bà H đã không còn tình cảm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được thì cuộc sống chung cũng không còn ý nghĩa. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H với ông T.

 [8] Về con chung: Bà H và ông T có 02 con chung tên Phạm Trần Tuyết G, sinh ngày 08/9/1996 (đã trưởng thành) và Phạm Trần Tiến P, sinh ngày 26/9/2005.

 [9] Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

 [10] Bà H yêu cầu được nuôi trẻ P, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Ông T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cũng như thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải nêu rõ yêu cầu của bà H, nhưng ông T không có văn bản nêu rõ ý kiến của mình đối với yêu cầu của bà H và ông cũng không đến Tòa án tham dự các buổi hòa giải, xét xử mà vắng mặt. Do đó, Tòa án căn cứ vào các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án để giải quyết.

 [11] Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 03/10/2016 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đối với trẻ Phạm Trần Tiến P thể hiện trẻ P có nguyện vọng sống cùng bà H. Do đó, nhằm bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho trẻ P, Hội đồng xét xử quyết định giao trẻ P cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng.

 [12] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung, đây là sự tự nguyện của bà H và không trái luật nên Hội đồng xét xử tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông T. [13] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác nhận bà và ông T không có tài sản chung và nợ chung. Ông T vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của ông về vấn đề tài sản chung, nợ chung giữa ông với bà H nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết vấn đề tài sản chung, nợ chung giữa bà H với ông T trong vụ án này, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

 [14] Về án phí: Bà Trần Thị Thu H chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào Điều 8, Điều 9, Khoản 1 Điều 19, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ vào Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án và Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà Trần Thị Thu H với ông Phạm Huỳnh T.

1.1. Bà Trần Thị Thu H được ly hôn với ông Phạm Huỳnh T.

1.2. Giấy chứng nhận kết hôn số 08/96 Quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện G, tỉnh Tiền Giang Minh cấp ngày 06/8/1996 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung:

2.1. Có 02 (hai) con chung là Phạm Trần Tuyết G, sinh ngày 08/9/1996 (đã trưởng thành) và Phạm Trần Tiến P, sinh ngày 26/9/2005. Giao trẻ P cho bà Trần Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Ông T có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

4. Về án phí: Bà Trần Thị Thu H chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) mà bà H đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0020669 ngày 19/8/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

6. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 115/2017/HNGĐ-ST ngày 05/09/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:115/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;