TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 114/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 118/2020/TLST- HS ngày 06 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2020/QĐXXST- HS ngày 13/11/2020, đối với bị cáo:
Đỗ Thị Huyền Tr, sinh ngày 10/6/1998 tại Tuyên Quang.
Nơi cư trú: Tổ dân phố 15, phường T1, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; giới tính: Nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Đỗ Đức H và bà Nguyễn Thị T; chồng, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/7/2020 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều ngày 29/7/2020, bị cáo Đỗ Thị Huyền Tr điều khiển xe máy điện biển kiểm soát 22MĐ1 - 044.xx (xe bị cáo mượn của bà Nguyễn Thị T, mẹ của bị cáo) đến đầu đường rẽ vào trụ sở hãng Taxi S, thuộc tổ 14, phường P, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, gặp một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ (theo bị báo khai tên là T2) mua được 01 gói nilon màu trắng trên mép có đường viền màu xanh bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng Methamphetamine, để trong bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng, với số tiền 300.000 đồng (bị cáo khai số tiền này là của một người tên N, bị cáo mới quen, đưa cho bị cáo để đi mua Methamphetamine về cùng nhau sử dụng). Sau khi mua được, bị cáo cầm gói Methamphetamine để vào giỏ xe máy điện và điều khiển xe quay lại khu vực trước Nhà nghỉ S, thuộc tổ 14, phường P, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang (nơi bị cáo hẹn với N để cùng nhau sử dụng ma tuý), thì bị Tổ công tác Công an thành phố Tuyên Quang phối hợp với Công an phường P, phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 17 giờ 55 phút cùng ngày, thu giữ 01 gói Methamphetamine bị cáo cất giấu ở giỏ xe máy điện.
Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với bị cáo, kết quả (+) dương tính (bị cáo khai nhận đã sử dụng ma túy vào ngày 24/7/2020).
Tại Kết luận giám định số 589/GĐKTHS ngày 01/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật (thu giữ của Đỗ Thị Huyền Tr) gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 0,150g (không phẩy không một năm không gam).
Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 118/CT-VKSTP ngày 05 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Đỗ Thị Huyền Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đỗ Thị Huyền Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Thị Huyền Tr từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Ngoài ra Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo; xử lý vật chứng (tịch thu, tiêu huỷ số Methamphetamine còn lại sau giám định và 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng; trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động); tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình điều tra, bị cáo Đỗ Thị Huyền Tr đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi vi phạm của mình.
Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Thị Huyền Tr tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng Biên bản bắt người phạm tội quả tang; kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 17 giờ 55 phút ngày 29/7/2020, tại khu vực tổ 14, phường P, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Đỗ Thị Huyền Tr có hành vi cất giữ trái phép 0,150g (không phẩy một năm không gam) Methamphetamine, mục đích để sử dụng.
Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; số Methamphetamine mà bị cáo cất giữ trái phép có khối lượng dưới 05 gam. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quanq, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo do vậy được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma tuý mà bị cáo tàng trữ cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.
Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo đúng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang.
[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 24/7/2020 của bị cáo, Công an thành phố Tuyên Quang đã xử phạt vi phạm hành chính (phạt cảnh cáo); đối với người đàn ông theo bị cáo khai nhận tên là N đưa tiền cho bị cáo để mua ma túy và người đàn ông theo bị cáo khai nhận tên T2 là người bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp điều tra nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về vật chứng: Đối với số ma tuý còn lại (sau khi giám định) và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng đã thu giữ của bị cáo là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy; đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE đã qua sử dụng là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.
[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Thị Huyền Tr phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
Xử phạt bị cáo Đỗ Thị Huyền Tr 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 29/7/2020).
2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự - Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của Đỗ Thị Huyền Tr, chữ ký của thành phần tham gia niêm phong, 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 0,10 gam Methamphetamine; 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng:
- Trả lại cho bị cáo Đỗ Thị Huyền Tr 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE đã qua sử dụng.
Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 11/11/2020.
3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
- Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
- Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 114/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 114/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về