TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ - TP. ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 114/2018/HSST NGÀY 26/11/2018 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 26 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự thụ lý số 106/2018/TLST-HS ngày 31/10/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2018/QĐXXST-HS ngày 12/11/2018 đối với bị cáo:
BÙI QUANG D, sinh năm 1937 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi đăng ký HKTT: đường Ngô Quyền, tổ 6, phường A, quận S, thành phố Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Quang T (đã chết) và bà Phan Thị L (đã chết); Vợ Phạm Thị C (đã chết); có 08 người con, con lớn nhất sinh năm 1955, con nhỏ nhất sinh năm 1975; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
*Người bào chữa cho bị cáo Bùi Quang D là: Ông Võ Văn Thiết, Luật sư Văn phòng Luật sư Thiết và Cộng sự thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng là Cộng tác viên của Trung tâm trợ giáp pháp lý nhà nước thành phố Đà Nẵng; Địa chỉ: số 357/88, đường Lê Văn Hiến, phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. (Có mặt)
-Người bị hại: Cháu Trần Khánh T, sinh ngày 29/9/2005; Địa chỉ: đường Ngô Quyền, phường A, quận S, thành phố Đ. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)
-Người giám hộ cho cháu Trần Khánh T là: Bà Ngô Thị T, sinh năm 1986; Địa chỉ: đường Lỗ Giáng 8, phường H, quận C, thành phố Đ. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 6/2017 đến đầu tháng 9/2017, cháu Trần Khánh T (sinh ngày 29/9/2005) đến nhà ông Bùi Quang D chơi với cháu Bùi Thị T (là cháu nội của ông D từ Huế ra nhà ông D chơi) thì bị ông D nhiều lần thực hiện hành vi dâm ô: Dùng tay sờ soạng, hôn vào ngực và âm hộ của cháu T. Đến ngày 17/5/2018, cháu T hẹn ông D ngồi nói chuyện tại ghế đá của nhà văn hóa phường An Hải Đông. Tại đây, T sử dụng điện thoại để ghi âm cuộc nói chuyện dài 23 phút 28 giây về việc ông D đã nhiều lần có hành vi dâm ô đối với T. Cụ thể như sau:
- Lần thứ nhất: Vào buổi sáng một ngày trong tháng 6/2017, cháu T qua nhà ông D chơi với cháu Bùi Thị T. Khi cháu T xuống bếp, chỉ còn ông D với T ở phòng khách thì ông D nói với cháu T: “Cho ông sờ cái vú con xí” thì T đồng ý.
Lúc này, D chỉ cháu T lên gác lửng, T lên trước, ông D đi sau. Khi lên đến gác lửng, T ngồi xuống ở ghế salon, ông D đến ngồi xuống bên cạnh thì cháu T ngại nên chạy xuống dưới chơi với cháu T.
- Những lần tiếp theo: Sau lần thứ nhất đến khoảng đầu tháng 9/2017, vào mỗi buổi sáng trước khi đi học (trừ thứ 7 và chủ nhật, không nhớ cụ thể là bao nhiêu lần), cháu T đi qua nhà D. Khi gặp ông D tại phòng khách thì ông D nói với cháu T: “Cho ông sờ bướm của con xí”, T đồng ý rồi đi vào phòng ngủ của ông D. Sau đó, T cởi quần dài ra (T không mặc đồ lót), lấy gối rồi nằm ngửa xuống nền nhà, còn ông D nằm sấp xuống nền nhà rồi dùng tay sờ, bóp rồi dùng miệng hôn, bú vú, âm hộ của cháu T. Ông D thực hiện được khoảng 5 đến 7 phút thì nước trong âm hộ của cháu T chảy ra. Thấy vậy, ông D lấy khăn lau âm hộ cho T rồi T mặc quần vào đi học.
Tang vật thu giữ: 01 USB màu trắng có nội dung ghi âm cuộc nói chuyện về hành vi dâm ô của ông D đối với T.
Bồi thường dân sự: Cháu Trần Khánh T và đại diện hợp pháp của cháu T
không có yêu cầu bồi thường nên không đề cập xử lý.
Với nội dung trên, tại Bản cáo trạng số 100/CT-VKS ngày 31/10/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Bùi Quang D về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo điểm b khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà giữ nguyên quan điểm đã truy tố Bùi Quang D về tội danh như đã nêu trên và đề nghị HĐXX: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 146; điểm o, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Bùi Quang D từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
Về vật chứng vụ án: Lưu hồ sơ vụ án 01 USB màu trắng có nội dung ghi âm cuộc nói chuyện về hành vi dâm ô của ông D đối với T.
Về trách nhiệm dân sự: Cháu Trần Khánh T và đại diện hợp pháp của cháu T không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Kiểm sát viên.
Người bào chữa cho bị cáo thống nhất với Kiểm sát viên về tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo là đúng. Tuy nhiên, người bào chữa đề nghị HĐXX xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã trên 70 tuổi; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn yêu cầu không truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo; hiện nay bị cáo đang bị K gan đã TCE/viêm gan C, bệnh mạch vành đã đặt stent (C22). Do đó, căn cứ điểm o, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin lỗi cháu T và gia đình cháu T, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Người bị hại là cháu Trần Khánh T và người giám hộ cho
cháu T là bà Ngô Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét, những người tham gia tố tụng vắng mặt đều đã có lời khai tại Cơ quan Điều tra được thể hiện trong hồ sơ vụ án và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
Quá trình điều tra, truy tố xác định bị hại là người dưới 16 tuổi theo nguyên tắc tiến hành tố tụng là đối tượng cần bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, người bị hại cũng như người đại diện hợp pháp của bị hại từ chối không yêu cầu cử Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại là người dưới 18 tuổi theo quy định tại Điều 413, 414 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (Bút lục 24).
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Sơn Trà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Xét quá trình điều tra bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn yêu cầu không truy cứu trách nhiệm hình sự (Bút lục 20). Tuy nhiên, hành vi của bị cáo cần phải xử lý mới có tác dụng răng đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm nên cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố, truy tố, xét xử là cần thiết và có xem xét việc bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn yêu cầu không truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ khác theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[4]. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Quang D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác đã được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà đã truy tố, thể hiện: Từ đầu tháng 6/2017 đến đầu tháng 9/2017, tại nhà riêng của ông D tại tổ 06, phường A, quận S, thành phố Đ, bị cáo Bùi Quang D đã nhiều lần có hành vi dùng tay sờ, bóp và dùng miệng hôn lên âm hộ, ngực của cháu Trần Khánh T. Tại thời điểm bị dâm ô, cháu Trần Khánh T mới được hơn 11 tuổi 08 tháng 02 ngày.
Hành vi của bị cáo Bùi Quang D đủ yếu tố cấu thành tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo điểm b khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình sự năm 2015. Viện Kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[5]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo:
- Hành vi của bị cáo Bùi Quang D là nguy hiểm cho xã hội vì mặc dù biết cháu T dưới 16 tuổi, còn đang đi học, nhưng bị cáo đã lợi dụng nhận thức non nớt của người bị hại để cố tình thực hiện hành vi phạm tội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất và sinh lý, ảnh hưởng đến tâm lý, danh dự, nhân cách và phẩm giá của người bị hại ở thời điểm hiện tại cũng như trong tương lai sau này, gây dư luận xấu trong xã hội, trái đạo đức. Do đó, đối với bị cáo Bùi Quang D cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
- Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
- Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã trên 70 tuổi nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm o, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, quá trình điều tra bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn yêu cầu không truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo, hiện nay bị cáo đang bị K gan đã TCE / viêm gan C, bệnh mạch vành đã đặt stent (C22), bị cáo già yếu trên 80 tuổi, là tình tiết giảm nhẹ khác theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Bùi Quang D, nhằm thực hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo già yếu, sống nhờ sự nuôi dưỡng của các con nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7]. Về trách nhiệm dân sự: Cháu Trần Khánh T và đại diện hợp pháp của cháu T không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.
[8]. Về vật chứng: Lưu hồ sơ vụ án 01 USB màu trắng có nội dung ghi âm cuộc nói chuyện về hành vi dâm ô của ông D đối với T.
[9]. Xét ý kiến của người bào chữa cho bị cáo về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ là có căn cứ nên chấp nhận.
[10]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Bùi Quang D phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 146; điểm o, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015:
Xử phạt bị cáo Bùi Quang D 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
Lưu hồ sơ vụ án 01 USB màu trắng có nội dung ghi âm cuộc nói chuyện về hành vi dâm ô của ông D đối với T.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Bùi Quang D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án 114/2018/HSST ngày 26/11/2018 về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Số hiệu: | 114/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về