TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 113/2024/HS-ST NGÀY 11/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 11 tháng 4 năm 2024 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện M, tỉnh S, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 100/2024/HSST ngày 07 tháng 03 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2024/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 03 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Hàng A V, sinh năm 1971, tại M, S.
Nơi cư trú: Bản Huổi D, xã Chiềng C, huyện Sông M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Mông; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt nam; con ông Hàng A S (đã chết) và bà Sùng Thị M; bị cáo có vợ là Giàng Thị Tr và 04 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: tốt; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2023 cho đến nay; có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Cầm Văn Hải, sinh năm 1979; nơi cư trú: Bản M, xã Chiềng C, huyện M, tỉnh S. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 15 giờ 00 phút ngày 17/12/2023 tổ công tác Công an xã Chiềng C, huyện M làm nhiệm vụ phòng chống ma tuý tại bản Huổi D, xã Chiềng C, huyện M phát hiện một người đàn ông điều khiển xe mô tô hướng từ bản Pá Nó về bản Huổi D, xã Chiềng C có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma tuý nên đã yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Khi dừng lại đối tượng khai nhận tên là Hàng A V, sinh năm 1971 trú tại bản Huổi D, xã Chiềng C, huyện M. Qua làm việc V tự lấy từ trong túi áo phía trước bên trái ra một gói nilon màu xanh để giao nộp cho tổ công tác, qua kiểm tra bên trong chứa chất bột liên kết màu trắng (V khai nhận là Heroine). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hàng A V, thu giữ và niêm phong vật chứng, ngoài ra tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave biển kiểm soát 89K7 - xxxx.
Ngày 18/12/2023 tại Cơ quan CSĐT Công an huyện M, Hội đồng bóc mở niêm phong đã tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng và trích mẫu giám định, kết quả: Số bột màu trắng thu giữ có khối lượng là 0,20 gam đã trích 0,05 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu V, vật chứng còn lại là 0,15 gam ký hiệu L.
Tại bản kết luận giám định số 37/KL ngày 19/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S, kết luận: Mẫu ký hiệu V gửi giám định là ma tuý, loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,05 gam. Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,20 gam; loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất.
Quá trình điều tra bị cáo Hàng A V khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 17/12/2023 V hỏi mượn xe mô tô của anh Cầm Văn Hải, trú tại bản Mỏ, xã Chiềng C (do Hải lên làm thuê tại bản Huổi D), sau đó đem theo số tiền 200.000 đồng rồi một mình điều khiển xe mô tô từ bản Huổi D lên khu vực nương ngô của bản Huổi D để hái rau lợn. Đến khu vực nương ngô V gặp một nam thanh niên dân tộc Thái, qua nói chuyện V hỏi mua được một gói Heroine, gói bằng mảnh nilon màu xanh với số tiền 200.000 đồng. Mua được ma tuý V cho vào túi áo đang mặc rồi đi hái rau lợn, khoảng 15 giờ cùng ngày V điều khiển xe mô tô về nhà, khi về đến bản Huổi D, xã Chiềng C thì gặp tổ công tác Công an xã Chiềng C, huyện M làm nhiệm vụ, kiểm tra, phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng, tài sản như đã nêu.
Cáo trạng số 45/CT-VKSSM ngày 06 tháng 03 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện M để xét xử bị cáo Hàng A V về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Hàng A V đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện M vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật viện dẫn áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử Tuyên bố bị cáo Hàng A V phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Hàng A V từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;
điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị:
- Tịch thu để tiêu hủy 0,15 gam ma túy, loại Heroine đựng trong một túi nilon màu trắng; 01 mảnh nilon màu xanh và 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.
Về án phí: Đề nghị miễn án phí cho bị cáo.
Bị cáo Hàng A V không có ý kiến gì đối đáp với lời luận tội của Kiểm sát viên, khi được nói lời sau cùng, bị cáo chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Cầm Văn Hải đã được trả lại chiếc xe mô tô nên không có yêu cầu gì thêm.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, ý kiến của người liên quan, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 17/12/2023 bị cáo Hàng A V đã có hành vi tàng trữ 0,20 gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.
Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; phát biểu luận tội của của Kiểm sát viên tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị mức xử phạt tù giam đối với bị cáo về tội danh nêu trên là phù hợp, có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.
Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mà bị cáo Hàng A V thực hiện đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
[3] Về tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là vi phạm điều cấm của pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật, vi phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương nên cần xử lý nghiêm.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt chính: Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị cáo, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội cũng như công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
[6] Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về các vấn đề có liên quan: Đối với người đàn ông dân tộc Thái, không rõ tên, địa chỉ là người đã bán ma tuý cho bị cáo tại khu vực nương thuộc bản Huổi D, xã Chiềng C, huyện M vào ngày 17/12/2023. Do không xác định được họ tên đầy đủ và địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.
[8] Vật chứng của vụ án:
- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 89K7 - xxxx đăng ký mang tên Phạm Hồng Hải, do Cầm Văn Hải mua lại nhưng không làm thủ tục sang tên. Xe không có trong cơ sở dữ liệu vật chứng. Ngày 17/12/2023 Cầm Văn Hải điều khiển xe mô tô đến bản Huổi D, xã Chiềng C làm thuê và có cho bị cáo Hàng A V mượn đi công việc cá nhân. Sau khi bị cáo V hỏi mượn được xe mô tô thì đã điều khiển đi mua ma tuý thì Hải không biết nên Hải không đồng phạm với hành vi của bị can. Ngày 26/02/2024 Cơ quan CSĐT Công an huyện M trao trả lại chiếc xe mô tô cho anh Cầm Văn Hải là có căn cứ, cần chấp nhận.
- Đối với 0,15 gam ma túy, loại Heroine đựng trong một túi nilon màu trắng; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở là vật cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu để tiêu hủy.
[9] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên được xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Hàng A V phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Hàng A V 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/12/2023.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu để tiêu hủy 0,15 gam ma túy, loại Heroine đựng trong một túi nilon màu trắng; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.
(các vật chứng được đựng trong một phong bì thư do Bưu điện Việt Nam phát hành được niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 0021404).
Theo Quyết định chuyển vật chứng số: 42/QĐ-VKS ngày 06/03/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M và Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập hồi 15 giờ 00 phút ngày 07 tháng 03 năm 2024 giữa Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M.
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội. Bị cáo Hàng A V được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 11/4/2024).
Bản án 113/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 113/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về