Bản án 113/2023/HS-ST về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 113/2023/HS-ST NGÀY 23/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 116/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2023, đối với bị cáo:

Hoàng Văn C, sinh năm 1995; HKTT: Thôn P, xã T, huyện Yên Phong, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Văn Q, sinh năm 1968 và bà Trần Thị Th, sinh năm 1969; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ, con: Chưa có;

Tiền án: Tại Bản án số 187/2019/HSST ngày 18/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh B xử phạt Hoàng Văn C 27 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc C bồi thường cho bị hại số tiền 32 triệu đồng. Tại Bản án số 24/2020/HSPT ngày 28/4/2020 của Tòa án tỉnh B: giữ nguyên Bản án sơ thẩm. C đã chấp hành xong án phí HSST, DSST và tiền bồi thường cho bị hại, chấp hành xong án phạt tù ngày 14/10/2021.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/02/2023 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B, có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Ông Nguyễn Tiến Ng, sinh năm 1964; HKTT: Số nhà 66 đường Th, khu 1, phường V, thành phố B, tỉnh B (Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng Văn Q, sinh năm 1968;

HKTT: Thôn P, xã T, huyện Yên Phong, tỉnh B ( Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Văn C, sinh năm 1995, HKTT: Thôn P, xã T, huyện Yên Phong, tỉnh B đã có tiền án về tội trộm cắp tài sản. Khoảng 23 giờ ngày 15/02/2023, C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 99D1 - xxxxx đi từ nơi làm việc ở khu Dương Ổ, phường Phong Khê, thành phố B về nhà. Khi đi đến gần khách sạn Hoàng Gia thuộc phường Võ C, thành phố B, C nhặt được thanh sắt dài khoảng 60 – 70 cm loại sắt phi 12 đặc, hai đầu tròn và tiếp tục đi về nhà. Khi đi đến đường Thiên Đức thuộc phường Vệ An, thành phố B, C phát hiện phía bên tay trái có một ki ốt bán cá cảnh tại số 23 đường Th của ông Nguyễn Tiến Ng, sinh năm 1964, HKTT: Khu 1, phường V, thành phố B, tỉnh B. C thấy ở đường không có người đi lại và ki ốt khóa ngoài, C nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong ki ốt. C dừng xe máy trước cửa ki ốt, tay trái cầm điện thoại nhãn hiệu Oppo Reno 6 bật đèn phía sau để soi, còn tay phải cầm thanh sắt vừa nhặt được trước đó tiến lại gần cửa sắt của ki ốt là loại cửa xếp sắt chọc thẳng vào ổ khóa khoảng 5 đến 6 lần thì khóa ki ốt bung ra. C quay lại xe máy cất thanh sắt trên, rồi dùng tay phải đẩy cánh cửa bên trái cửa ki ốt ra. Khi vào được bên trong nhà, C đi đến vị trí góc nhà bên tay phải thấy có một tủ kính, trên nóc tủ có một khay nhựa, bên trong đựng một số tiền lẻ mệnh giá từ 200 đồng đến 50.000 đồng. Thấy vậy, C dùng tay phải lấy hết số tiền trong khay. Lấy được tiền C quay người định bỏ đi thì bị chủ nhà là ông Ng phát hiện, do hoảng sợ nên C chạy ra ngoài cửa lấy xe mô tô bỏ chạy. Quá trình bỏ chạy, C làm rơi 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno 6; 01 giấy đăng ký xe mô tô BKS 99D1-xxxxx mang tên Hoàng Văn C và 01 thẻ ATM Ng hàng Vietinbank mang tên Hoàng Văn C ở trước cửa ki ốt, còn 01 thanh sắt C dùng để phá khóa C đã làm rơi ở đâu không rõ.

Ngày 16/02/2023 ông Nguyễn Tiến Ng đã đến Cơ quan Công an trình báo về việc bị mất trộm tiền và giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Reno 6; 01 giấy đăng ký xe mô tô BKS 99D1-xxxxx mang tên Hoàng Văn C và 01 thẻ ATM Ngân hàng Vietinbank mang tên Hoàng Văn C do C làm rơi.

Cùng ngày 16/02/2023, Hoàng Văn C đến Cơ quan Công an đầu thú, và giao nộp: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 99D1-xxxxx; số tiền 1.130.700 đồng mà C trộm cắp được, gồm 08 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, 10 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, 17 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng, 118 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng, 101 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng, 17 tờ tiền mệnh giá 500 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 200 đồng. Qua kiểm tra nước tiểu của Hoàng Văn C, Công an xác định C có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 18/4/2023, Công an thành phố B đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 11/QĐ-XPHC bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng đối với C.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 99D1-xxxxx, C khai nhận do ông Hoàng Văn Q là bố đẻ C mua và nhờ C đứng tên đăng ký. Do C mới đi chấp hành án về không có phương tiện đi lại nên ông Quỳ cho C mượn để đi làm.

Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với số tiền do C đã giao nộp. Tại Kết luận giám định số 774/KL- KTHS ngày 17/02/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: 08 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, 10 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, 17 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng, 118 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng, 101 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng, 17 tờ tiền mệnh giá 500 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 200 đồng là tiền thật.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

Đối với số tiền 1.130.700 đồng C trộm cắp được, ngày 17/02/2023 Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã trả cho ông Nguyễn Tiến Ng, ông Ng đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Ngoài ra ông Ng còn có đơn xin giảm nhẹ mức hình phạt cho Hoàng Văn C.

Đối với chiếc thẻ ATM Ng hàng Vietinbank mang tên Hoàng Văn C không liên quan đến vụ án nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã trả cho gia đình của C.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 99D1-xxxxx, 01 điện thoại OPPO Reno 6 đã qua sử dụng; 01 giấy đăng ký xe máy BKS số 99D1-xxxxx mang tên Hoàng Văn C, Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã chuyển đến Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố B để bảo quản và xử lý sau.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 76/CT-VKSTPBN ngày 28/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố Hoàng Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Ông Hoàng Văn Q trình bày: Nguồn gốc số tiền mua chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 99D1-xxxxx là của ông (Quỳ). Do C mới đi chấp hành án về, không có phương tiện đi lại nên ông nhờ C đứng tên đăng ký và cho C mượn để đi làm. Nay ông đề nghị được xin lại chiếc xe mô tô trên.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1, Điều 173; điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Hoàng Văn C từ 06 tháng đến 08 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

Đối với số tiền 1.130.700 đồng ngày 17/02/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả cho ông Nguyễn Tiến Ng, ông Ng đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu C phải bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.

Đối với chiếc thẻ ATM Ngân hàng Vietinbank mang tên Hoàng Văn C không liên quan đến vụ án nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã trả cho gia đình của C là phù hợp.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 99D1-xxxxx; 01 giấy đăng ký xe máy BKS số 99D1-xxxxx mang tên Hoàng Văn C cần trả lại cho ông Hoàng Văn Q là bố đẻ C.

Đối với 01 điện thoại OPPO Reno 6 đã qua sử dụng của Hoàng Văn C cần tịch thu sung Ng sách Nhà nước.

Bị cáo Hoàng Văn C nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Hoàng Văn C tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra; Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú; Phù hợp với thời gian, địa điểm, lời khai của bị hại, những người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 23 giờ ngày 15/02/2023, Hoàng Văn C, sinh năm 1995, HKTT: Thôn P, xã T, huyện Yên Phong, tỉnh B là người đã có tiền án về tội trộm cắp tài sản, đã có hành vi lén lút trộm cắp số tiền 1.130.700 đồng của ông Nguyễn Tiến Ng, sinh năm 1964, HKTT: Khu 1, phường V, thành phố B, tỉnh B, để ở trong khay nhựa để trên nóc tủ kính bên trong ki ốt bán cá cảnh tại số 23 đường Th, khu 1, phường V, thành phố B, tỉnh B.

Như vậy, bị cáo đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” lại tiếp tục thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị 1.130.700 đồng. Hành vi mà bị cáo C thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự tại địa bàn thành phố B, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân. Vì vậy phải đưa ra xét xử bị cáo kịp thời và có hình phạt nghiêm nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan Công an đầu thú, giao nộp lại toàn bộ tài sản đã trộm cắp. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho C. Bị cáo có thời gian phục vụ trong Quân đội, bác ruột bị cáo là ông Hoàng Văn T liệt sỹ do bố bị cáo là ông Hoàng Văn Quỳ đang thờ cúng. Nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có hình phạt nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính cần phạt bị cáo một khoản tiền sung công quỹ Nhà nước mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, nhưng xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp. Do đó Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo, ngày 18/4/2023 Công an thành phố B đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 11/QĐ-XPHC bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng đối với C là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Về trách nhiệm dân sự và vật chứng:

Do bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên không đặt ra xem xét giải quyết là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với chiếc thẻ ATM Ng hàng Vietinbank mang tên Hoàng Văn C không liên quan đến vụ án nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã trả cho gia đình của C là phù hợp với quy định của pháp luật.

Trả lại cho ông Hoàng Văn Q là bố đẻ bị cáo, 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 99D1-xxxxx; 01 giấy đăng ký xe máy BKS số 99D1-xxxxx mang tên Hoàng Văn C là phù hợp với quy định của pháp luật.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại OPPO Reno 6 đã qua sử dụng của Hoàng Văn C.

[6] Về án phí: Bị cáo C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Hoàng Văn C 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/02/2023. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu sung Ng sách Nhà nước 01 điện thoại OPPO Reno 6 đã qua sử dụng màu đa sắc.

Trả lại cho ông Hoàng Văn Q chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc BKS 99D1-xxxxx; 01 giấy đăng ký xe máy BKS số 99D1-xxxxx mang tên Hoàng Văn C.

Theo biên bản giao nhận tài sản, vật chứng ngày 27/4/2023 giữa Công an thành phố B với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.

Về án phí: Buộc bị cáo Hoàng Văn C phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

78
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 113/2023/HS-ST về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:113/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;