Bán án 113/2020/HNGĐ-ST ngày 10/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ X, TỈNH AN GIANG

BÁN ÁN 113/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 10 tháng 9 năm 2020 tại Tòa án nhân dân thành phố X xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 223/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2020 về “Yêu cầu không công nhận quan hệ hôn nhân là vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo số: 175/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 183/2020/QĐST – HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2020 và Thông báo mở lại phiên tòa số 32/TB-TA ngày 21 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1977. Có mặt Địa chỉ: Số 672D, khóm B 4, phường B, Thành phố X, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Anh Trần Phước V, sinh năm 1978. Vắng mặt Địa chỉ: Số 672D, khóm B 4, phường B, Thành phố X, tỉnh An Giang.

Nơi công tác: Trường tiểu học P, khóm Bình Đức 2, phường K, thành phố X, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/02/2020 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn Nguyễn Thị H trình bày:

Năm 2006, chị Nguyễn Thị H và anh Trần Phước V quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân qua mai mối, có tổ chức lễ cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông V không có trách nhiệm với vợ con và có hành vi bạo hành gia đình được Ủy ban nhân dân phường B, thành phố X hòa giải tranh chấp nhiều lần nên cả hai không sống chung với nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên chị H yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị và anh V là vợ chồng; Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Thế Q sinh ngày 08/8/2007. Chị H đang chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và yêu cầu được tiếp tục con chung và yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con hàng tháng theo quy định pháp luật; Về tài sản chung: Chị H và anh V tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không có.

Bị đơn Trần Phước V vắng mặt trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và lần thứ hai tại phiên tòa, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa Hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

Nguyên đơn Nguyễn Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn Trần Phước V vắng mặt lần thứ hai, không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thành phần Hội đồng xét xử cũng như xác định quan hệ tranh chấp, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Năm 2006, chị H, anh V chung sống như vợ chồng, không có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian th ì phát sinh mâu thuẫn và đã ly thân từ năm 2009 đến nay. Anh V mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng nhiều lần vắng không có lý do, không tham gia các phiên hòa giải, công khai chứng cứ, không trình bày ý kiến, do đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị H, anh V đã đi đến trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Trần Thế Q, sinh ngày 08/8/2007, chị H đang chăm sóc nuôi dưỡng, nguyện vọng con chung muốn sống chung với chị H. Do đó, nhằm đảm bảo ổn định về tinh thần và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu Q nên chấp nhận giao con chung cho chị H chăm sóc nuôi dưỡng và buộc anh V cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định. Do đó, yêu cầu của chị H là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại các Điều 9, 14, 81, 82, 83, 110, 116 Luật Hôn nhân và gia đình. Đối với tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ ý kiến của các đương sự tại bản tự khai, Tòa án nhận định:

Về thủ tục tố tụng [1] Tranh chấp giữa chị Nguyễn Thị H và anh Trần Phước V là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn đăng ký thường trú tại phường B, thành phố X nên nguyên đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố X theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Tại biên bản xác minh tình trạng cư trú, Công an phường B, thành phố X và Công an xã Mỹ Hội Đông, huyện C, tỉnh An Giang đều xác nhận: Bị đơn Trần Phước V đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 672D, khóm B 4, phường B, Thành phố X, tỉnh An Giang. Ngoài ra, ông V đang công tác tại Trường tiểu học P, khóm Bình Đức 2, phường K, thành phố X và Tòa án đã tiến hành tống đạt trực tiếp, niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn hợp lệ nhưng bị đơn đã từ chối các quyền, cũng như không thực hiện nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 227, khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn Trần Phước V.

Về nội dung tranh chấp [1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Trần Phước V tự nguyện tiến đến hôn nhân từ năm 2006 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, mặc dù cả hai người đủ điều kiện đăng ký kết hôn theo quy định chu ng. Như vậy, hôn nhân giữa nguyên đơn, bị đơn đã không tuân thủ theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về đăng ký kết hôn. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn trong hôn nhân giữa các bên, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh V là vợ chồng và xem xét quyền, nghĩa vụ của anh V, chị H và con trong trường hợp các bên chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 14, Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Về con chung: Chị H và anh V có 01 con chung tên Trần Thế Q, sinh ngày 08/8/2007, hiện chị H đã chăm sóc, nuôi dưỡng và yêu cầu được nuôi con nhưng anh V không có ý kiến phản đối. Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc học hành cháu Q cũng như xem xét điều kiện, hoàn cảnh của chị H và nguyện vọng của cháu Q theo biên bản lấy lời khai ngày 12/6/2020. Tòa án chấp nhận yêu cầu của chị H được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chị H cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh V trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chị H và anh V có quyền thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con theo quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật nhưng anh V không có ý kiến phản đối. Xét thấy, chị H đang trực tiếp nuôi con, anh V không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Do đó, Hội đồng xét xử buộc anh V phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung Trần Thế Q hàng tháng là 750.000đ (tương đương với ½ tháng lương cơ sở tại thời điểm xét xử sơ thẩm). Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung trưởng thành, khỏe mạnh và có khả năng tự lập nuôi sống bản thân theo quy định tại các Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117, Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị H và anh V tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét đến.

[5] Về nợ chung: Không có

[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

[8] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 1 Điều 227, khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 1 Điều 238; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9; Điều 14; Điều 15; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 107; Điều 110; Điều 116; Điều 117; Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án;

Xử vắng mặt bị đơn Trần Phước V.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị H. [1] Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Trần Phước V là vợ chồng.

[2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị H được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Trần Thế Q, sinh ngày 08/8/2007. Chị H cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh V trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Chị H và anh V có quyền thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con theo quy định pháp luật.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh V phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung Trần Thế Q, sinh ngày 08/8/2007 hàng tháng là 750.000đ (tương đương với ½ tháng lương cơ sở tại thời điểm xét xử sơ thẩm). Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung trưởng thành, khỏe mạnh và có khả năng tự lập nuôi sống bản thân.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí Nguyên đơn Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000932 ngày 29/4/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X. Nguyên đơn đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí.

Bị đơn Trần Phước V phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

[6] Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bán án 113/2020/HNGĐ-ST ngày 10/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:113/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;