Bản án 113/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN X M, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU 

BẢN ÁN 113/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 18 tháng 9 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện XM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 275/2019/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 95/2019/QĐST- HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Hồng G, sinh năm: 1989 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp 2 T, xã BL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm: 1983. (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp 1, xã Hòa Bình, huyện XM, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/5/2019 bản khai và các biên bản làm việc tiếp theo tại Tòa án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn – Bà Lê Thị Hồng G trình bày:

Bà G xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn N vào năm 2010 nhưng đến năm 2016 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa Bình, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, có tổ chức lễ cưới, trước khi cưới có thời gian tìm hiểu nhau. Cuộc sống chung hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bà G và ông N bất đồng quan điểm, cuộc sống không có tiếng nói chung nên vợ chồng thường xảy ra cãi vã. Ông N thường đánh đập bà G mỗi khi vợ chồng gây gổ nhau. Bà G đã cố gắng chịu đựng nhưng ông N vẫn thường xuyên kiếm chuyện hành hạ bà G. Bà G và ông N đã ly thân từ tháng 4/2019 đến nay, không còn quan hệ qua lại về mặt tình cảm cũng như kinh tế.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà G yêu cầu được ly hôn với ông N.

Về con chung: Bà G và ông N có 03 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 15/12/2010; Nguyễn Nhất N, sinh ngày 06/4/2013 và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh ngày 04/02/2016, hiện 03 con chung đang sống cùng ông N. Bà G đồng ý để ông N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung. Bà G không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà G xác nhận, bà G và ông N không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản khai và biên bản hòa giải ngày 17/6/2019 tại Tòa án bị đơn ông Nguyễn Văn N trình bày:

Về thời gian, điều kiện hoàn cảnh kết hôn ông N thống nhất như lời trình bày của bà G. Ông N và bà G xây dựng gia đình vào năm 2010 cuộc sống chung thời gian đầu hạnh phúc nhưng thời gian mấy năm gần đây thì có nhiều mâu thuẫn, do bà G nghe người ngoài xúi giục bỏ chồng, bỏ con từ đó vợ chồng thường phát sinh cãi vã lúc nóng giận ông N có đánh bà G, từ đó bà G bỏ về nhà mẹ ruột sinh sống. Theo ông N hiện nay bà G có tình cảm với người đàn ông khác. Ông N và bà G ly thân từ tháng 02/2019 đến nay, không còn quan hệ qua lại gì về mặt tình cảm cũng như kinh tế.

Nay theo yêu cầu ly hôn của bà G thì ông N không đồng ý ly hôn vì ông N là người có đạo nên không thể ly hôn với bà G. Ông N không còn tình cảm gì với bà G.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông N xác nhận ông N và bà G không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau lần có mặt tại phiên hòa giải ngày 16/7/2019 Tòa án mời hòa giải nhiều lần nhưng ông N vắng mặt không có lý do. Do đó Tòa án lập biên bản về việc vắng mặt đương sự không tiến hành hòa giải được để có cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Tại các phiên Tòa ông N đều vắng mặt không có lý do.

Phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình; bị đơn còn vắng mặt tại các buổi làm việc trước đây cũng như tại các phiên tòa là chưa chấp hành đúng pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ly hôn và giải quyết con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Quan hệ tranh chấp: Bà Lê Thị Hồng G yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với ông Nguyễn Văn N, đây là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1, Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn ông Nguyễn Văn N có nơi cư trú tại địa bàn huyện XM theo điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện XM.

Trong quá trình tham gia tố tụng, ông Nguyễn Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông N vắng mặt không có lý do. Vì vậy việc xét xử vắng mặt ông N là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà G xây dựng gia đình với ông N vào năm 2010 nhưng đến năm 2016 mới đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn (Giấy chứng nhận kết hôn số 132 ngày 11/11/2016 tại UBND xã Hòa Bình, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Cuộc sống chung của bà G và ông N phát sinh mâu thuẫn về nguyên nhân mâu thuẫn thì bà G và ông N trình bày có sự khác nhau, nhưng mâu thuẫn giữa bà G và ông N là có thật. Do vợ chồng bất đồng quan điểm, không còn tin tưởng nhau, nên thường phát sinh cãi vã và có khi xảy ra xô sát. Bà G và ông N ly thân từ đầu năm 2019 đến nay mạnh ai nấy sống, không quan tâm gì đến nhau. Bà G có yêu cầu ly hôn, ông N không đồng ý ly hôn.

Xét yêu cầu của bà G cho thấy sau khi mâu thuẫn xảy ra, lẽ ra bà G và ông N phải cùng tìm cách khắc phục những mâu thuẫn của vợ chồng để cuộc sống chung được hạnh phúc và cùng nhau chăm sóc nuôi dạy con cái nhưng từ đầu năm 2019 đến nay bà G và ông N ly thân mạnh ai nấy sống, không quan tâm gì đến nhau. Sau khi bà G gửi đơn, Tòa án đã tiến hành hòa giải để đoàn tụ vợ chồng, tại buổi hòa giải ông N không đồng ý ly hôn, lý do ông N không đồng ý ly hôn vì ông N là người theo đạo chứ không phải vì còn thương yêu, muốn xây dựng gia đình hạnh phúc với bà G. Sau đó Tòa án mời hòa giải nhiều lần nhưng không thể hòa giải được, ông N vắng mặt không lý do, còn bà G thì nhất quyết ly hôn.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng của bà G và ông N thật sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà G đối với ông N.

[3] Về con chung: Xét nguyện vọng của bà G cho thấy bà G đồng ý giao 03 con chung cho ông N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Bà G không cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu của ông N cho thấy ông N yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung, hiện các con chung đang sống cùng ông N. Do đó Tòa án căn cứ vào thực tế và các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, căn cứ vào điều kiện nuôi con của ông N, hiện ông N có nhà cửa, có công việc và thu nhập ổn định đủ điều kiện đảm bảo việc nuôi dưỡng các con chung. Do đó để tránh xáo trộn cuộc sống của con chung, giao 03 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 15/12/2010; Nguyễn Nhất N, sinh ngày 06/4/2013 và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh ngày 04/02/2016 cho ông N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật và nguyện vọng của bà G và ông N. Ông N không yêu cầu bà G cấp dưỡng nuôi 03 con chung là sự tự nguyện của ông N nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà G và ông N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà G phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 28, điểm a, khoản 1, Điều 35, điểm a, khoản 1, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Hồng G đối với ông Nguyễn Văn N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Hồng G được ly hôn với ông Nguyễn Văn N.

2. Về con chung: Ông Nguyễn Văn N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 15/12/2010; Nguyễn Nhất N, sinh ngày 06/4/2013 và Nguyễn Thị Ngọc H, sinh ngày 04/02/2016 . Bà Lê Thị Hồng G không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Lê Thị Hồng G có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị Hồng G và ông Nguyễn Văn N không có tài sản chung và nợ chung.

4. Về án phí: Bà Lê Thị Hồng G phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà G đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008093 ngày 15/5/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà G đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 113/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:113/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;