Bản án 113/2017/HS-ST ngày 27/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 113/2017/HS-ST NGÀY 27/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 10 năm 2017, tại Nhà Văn hóa Trần Quốc Tuấn, thuộc khu hành chính 4, phường Đống Đa, Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 112/2017/HS-ST ngày 12 tháng 10 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 117/2017/HSST-QĐ ngày 16 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Triệu Đức T, sinh năm 1965; nơi cư trú: Thôn H, xã Đ, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 10/10; nghề nghiệp: Không; bố đẻ Triệu Kim Đ, mẹ đẻ Đỗ Thị B, vợ là Nguyễn Thị H và có 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Có 01 tiền sự, tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 04/QĐ-XPHC ngày 18/01/2016, Công an huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 1.000.000đ về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo chưa nộp tiền phạt; nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 44/HSST ngày 13/11/2003, Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt bị cáo 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội “Đánh bạc”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và nộp xong tiền án phí vào tháng 07/2004; ngày 31/01/2005, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc ra quyết định số 126/QĐ- CT đưa bị cáo đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Vĩnh Phúc với thời hạn 24 tháng, ngày 10/4/2007 bị cáo đã chấp hành xong việc cai nghiện bắt buộc và trở về địa phương; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/6/2017 cho đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Triệu Đức T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào hồi 10 giờ 30 phút ngày 27/6/2017, Tổ công tác Công an phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên làm nhiệm vụ tại khu vực tổ dân phố Vĩnh Thịnh 4, phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc thì phát hiện và bắt quả tang Triệu Đức T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ gồm có: Thu tại tay phải của Triệu Đức T 01 túi nilon bên trong có 05 gói giấy nhỏ chứa chất bột màu trắng (T khai nhận đó là ma túy heroine của T vừa mua được, mục đích để sử dụng cho bản thân), vật chứng được niêm phong có ký hiệu A1; tạm giữ của Triệu Đức T số tiền 6.000đ.

Tại kết luận giám định số: 659/KLGĐ ngày 29/6/2017, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định có khối lượng là 0,4551 gam có heroine. Khối lượng heroine trong 0,4551 gam mẫu là 0,1811 gam. Hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định của mẫu A1 là 0,2323 gam và toàn bộ bao gói.

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ, Triệu Đức T khai nhận: Vào khoảng 10 giờ ngày 27/6/2017, T gặp một người nam giới tên H, thường gọi là “H cóc” (T không biết tuổi, họ, tên đệm và địa chỉ của H) ở đâu. H rủ T góp tiền mua ma túy về dùng chung, T đồng ý và đưa cho Hà 100.000đ. Sau khi mua được ma túy H đưa cho T 01 gói nilon bên trong có 5 gói ma túy. Có ma túy T đi tìm mua xilanh và nước cất để sử dụng thì bị Tổ Công tác Công an phường Tích Sơn kiểm tra phát hiện và bắt quả tang như đã nêu trên.

Ti Cáo trạng số: 116/KSĐT-MT ngày 11/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố bị cáo Triệu Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ti phiên tòa, bị cáo Triệu Đức T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu trên (bút lục 13, 45, 47, 49).

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Triệu Đức T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,2323 gam ma túy và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định; trả lại bị cáo Triệu Đức T số tiền 6.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo Triệu Đức T không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Triệu Đức T tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 27/6/2017, tại khu vực tổ dân phố Vĩnh Thịnh 4, phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, bị cáo Triệu Đức T có hành vi tàng trữ trái phép 05 gói ma túy, số ma túy được giám định có khối lượng là 0,4551 gam có heroine. Khối lượng heroine trong 0,4551 gam mẫu là 0,1811 gam.

Hành vi nêu trên của bị cáo Triệu Đức T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 có khung hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm tù.

Tuy nhiên, theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội được qui định tại khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015, thì hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nêu trên của bị cáo Triệu Đức T đã phạm tội theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, mặc dù tội danh và khoản của điều luật quy định là như nhau, nhưng hình phạt tù theo qui định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 có phần nhẹ hơn nên được vận dụng và áp dụng để có lợi cho người phạm tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người; gây ra một lớp người nghiện trong xã hội làm tác hại cho chính bản thân người nghiện và gia đình họ cũng như cho cộng đồng nói chung. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù nên theo quy định tại khoản 3 Điều 8 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Tc khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu, hiện có 01 tiền sự về hành vi cùng loại tội và trước đó đã 01 lần bị kết án về hành vi đánh bạc và 01 lần bị đưa đi cai nghiện bắt buộc. Mặc dù, tiền án về tội đánh bạc và tiền sự về việc đi cai nghiện bắt buộc đã được xóa án tích và được coi là chưa bị xử lý hành chính nhưng cũng chứng tỏ bị cáo là đối tượng rất coi thường pháp luật, không biết ăn năn hối cải để hoàn lương. Do đó, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt có xem xét đến tình tiết: “Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo qui định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Ngoài ra, bị cáo có bố đẻ là “Liệt sỹ” nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đi với người nam giới tên H, thường gọi là “H cóc”, quá trình điều tra bị cáo T khai không biết họ, tên đệm, tuổi và địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý là đúng theo quy định của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Đối với vật chứng là ma túy và bao gói ma túy còn lại sau giám định không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với số tiền 6.000đ đã thu giữ, đây là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho bị cáo nhưng được tạm giữ để đảm bảo thi hành án về tiền án phí.

Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Triệu Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Triệu Đức T 02 (hai) năm tù;

thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 27/6/2017).

Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự, - Tịch thu tiêu huỷ 0,2323 gam ma túy heroine và toàn bộ bao gói ma túy còn lại sau giám định;

- Trả lại bị cáo Triệu Đức T số tiền 6.000đ (Sáu nghìn đồng) nhưng được tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Đặc điểm tang vật như biên bản bàn giao vật chứng ngày 26/10/2017). Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Triệu Đức T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 113/2017/HS-ST ngày 27/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:113/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;