TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1130/2023/DS-ST NGÀY 21/06/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỢP TÁC
Ngày 21 tháng 06 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1145/2018/TLST-DS ngày 20 tháng 06 năm 2018 về việc “tranh chấp hợp đồng hợp tác” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 187/2023/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 04 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 134/2023/QĐST-DS ngày 24 tháng 05 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Trường Th Địa chỉ: khu phố 1, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: ông Nguyễn Đăng Q, địa chỉ: 80 đường Ngô Quyền phường 7 quận 5 thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (theo Hợp đồng ủy quyền số 30621 ngày 20/12/2018 tại Phòng công chứng số 2 thành phố Hồ Chí Minh).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: ông Hà Văn T – Luật sư Công ty Luật TNHH Thiên Định thuộc Đoàn luật sư TP.Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z Người đại diện hợp pháp của bị đơn: ông Đỗ Thành T - giám đốc, là người đại diện theo pháp luật.
Địa chỉ: 12 đường X, phường Y, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ liên lạc: 89 đường C, phường D, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh .
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Ngọc T Địa chỉ: khu phố 3, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Tháp.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản khai và các biên bản làm việc tại Tòa án, nguyên đơn ông Nguyễn Trường Th trình bày:
Ngày 27/07/2016, ông Nguyễn Trường Th và Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z (gọi tắt là Công ty TZM) có ký kết Hợp đồng hợp tác số 00120016/HĐHT và Phụ lục hợp đồng đính kèm số 0012016A/PL HĐHT về việc “cùng nhau hợp tác để xúc tiến kế hoạch phát triển ca sĩ”. Theo thỏa thuận ông Th đã chuyển cho Công ty TZM số tiền 1.500.000.000 đồng (một tỷ năm trăm triệu đồng), số tiền này do mẹ ruột của ông Th là bà Nguyễn Ngọc T trực tiếp chuyển khoản cho Công ty TZM.
Trong quá trình hợp tác, Công ty TZM đã nhiều lần vi phạm các thoả thuận trong thực hiện công việc theo hợp đồng hợp tác mà các bên đã ký kết, cụ thể như: thông báo lịch học, lịch diễn, hoặc thay đổi lịch công việc rất cận thời gian và ảnh hưởng đến việc ông Th sắp xếp công việc khác để tham gia các buổi theo sự thay đổi của Công ty TZM. Công ty nhiều lần đưa ra các dự án trùng với những giờ học chuyên môn thanh nhạc của ông Th nhưng không bù giờ hợp lý và không thông báo đến giáo viên. Đặc biệt, quá trình hợp tác để ra sản phẩm âm nhạc đầu tiên với tên gọi “Có Những Yêu Thương” đã hoàn toàn thất bại, sản phẩm không đảm bảo về mặt chất lượng âm thanh, hình ảnh. Ông Th nhiều lần yêu cầu Công ty TZM chỉnh sửa hoàn chỉnh lại sản phẩm trước khi ra mắt, nhưng đều bị từ chối, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản phẩm âm nhạc đầu tiên của ông Th, thể hiện việc thiếu chuyên nghiệp của công ty.
Quá trình hai bên thực hiện Hợp đồng hợp tác cho đến khi ra sản phẩm là video âm nhạc đầu tiên với tên gọi “Có Những Yêu Thương” đã không đạt được kết quả như mong muốn ban đầu của các bên về chất lượng của sản phẩm, số lượng người xem, người nghe và các trang mạng giải trí.
Ngày 16/02/2017 giữa ông Th và công ty TZM có cuộc họp với nhau để giải quyết những vấn đề xảy ra trong quá trình hợp tác, cũng như lý do sản phẩm hợp tác đầu tiên thất bại. Do không thể tiếp tục làm việc cùng nhau nên ông Đỗ Thành Tâm giám đốc công ty TZM đã chủ động đưa ra yêu cầu thanh lý hợp đồng hợp tác với ông Th và ông Th đồng ý với yêu cầu đó.
Sau cuộc họp ngày 16/02/2017 ông Th đã nhiều lần liên hệ với công ty TZM để trao đổi về việc thanh lý hợp đồng như hai bên đã thống nhất trong cuộc họp ngày 16/02/2017 và việc tính toán chi phí, số tiền còn lại sau khi thanh lý hợp đồng. Khoảng tháng 03 năm 2017, Công ty TZM có gửi cho ông Th thông báo số 001/2017 ngày 16/03/2017 về việc yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng. Sau đó, Công ty TZM tiếp tục gửi Thông báo số 002/2017 ngày 21/03/2017 cho ông Th về việc ông Th tự ý chấm dứt và vi phạm hợp đồng số 0012016/HĐHT.
Để giải quyết việc thanh lý hợp đồng, ông Th đã nhiều lần gọi điện thoại, nhắn tin và gửi email cho công ty TZM, việc trao đổi giữa ông Th và công ty thể hiện qua các tin nhắn và email giữa ông Th và ông Đỗ Thành Tâm giám đốc công ty TZM. Ông Th nhiều lần yêu cầu Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z (đại diện là ông Đỗ Thàhh Tâm giám đốc) tính toán những hạn mục đã làm và hoàn trả số tiền còn lại cho ông Th. Sau nhiều lần nhắc nhở, phía công ty gửi cho ông Th Bảng báo giá với số tiền còn dư là 685.000.000 đồng.
Sau khi kiểm tra thấy công ty TZM liệt kê nhiều khoản chi không đúng và công ty bắt ông Th phải chịu thêm phần thuế thu nhập của công ty là không hợp lý, nên ông Th đã yêu cầu công ty tính toán lại đúng với những hạn mục công việc đã làm nhưng công ty tìm cách tránh né và không trả lại bất kì khoản tiền nào cho ông Th.
Đối chiếu với những thông tin nội bộ được cung cấp bởi team sản xuất của công ty, ông Th đã tính toán lại thì số tiền thực tế sử dụng để thực hiện các phần việc đã làm trong quá trình hợp tác là 479.700.000 đồng. Ông Th có thông báo bảng giá này cho công ty và yêu cầu trả lại cho ông số tiền còn lại là 1.020.300.000 đồng. Tuy nhiên, công ty TZM viện đủ lý do để lẩn tránh và không thanh lý hợp đồng với ông Th theo như thoả thuận trong cuộc họp ngày 16/02/2017 nhằm mục đích không trả lại tiền cho ông Th.
Do Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z không thực hiện đúng thỏa thuận nên ông Nguyễn Trường Th làm Đơn khởi kiện yêu cầu công ty TZM trả lại số tiền đã nhận theo hợp đồng sau khi trừ các khoản chi phí mà các bên đã sử dụng trong quá trình hợp tác là 479.700.000 đồng.
Ông Nguyễn Trường Th yêu cầu Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z trả lại số tiền là 1.020.300.000 đồng làm một lần ngay khi quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra nguyên đơn không có ý kiến yêu cầu gì khác.
Bị đơn là Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z trình bày (theo Bản khai ngày 14/03/2019 của ông Đỗ Thành Tâm giám đốc là người đại diện theo pháp luật Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z):
Ngày 27/07/2016, Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z và ông Nguyễn Trường Th nhất trí cùng nhau hợp tác để xúc tiến kế hoạch phát triển ca sĩ theo Hợp đồng hợp tác số 00120016/HĐHT và Phụ lục hợp đồng đính kèm số 0012016A/PL HĐHT về việc “cùng nhau hợp tác để xúc tiến kế hoạch phát triển ca sĩ”, thời hạn hợp đồng bắt đầu kể từ ngày 27/07/2016 đến hết ngày 27/12/2017, thời hạn này có thể kéo dài theo sự thỏa thuận giữa hai bên, giá trị hợp đồng là 1.500.000.000 đồng. Tuy nhiên, đang trong quá trình thực hiện hợp đồng nhưng không hiểu lý do gì ông Th lại đột nhiên đơn phương chấm dứt hợp đồng và đòi lại tiền.
Công ty TZM đã gửi 02 thông báo số 001/2017 ngày 16/03/2017 và số 002/2017 ngày 21/03/2017 cho ông Nguyễn Trường Th yêu cầu lên công ty để tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng số 0012016/HDHT ngày 27/7/2016 và phụ lục hợp đồng số 0012016A/PLHDHT như các bên thỏa thuận, bởi lẽ hợp đồng giữa công ty và ông Th vẫn đang trong thời gian được các bên thực hiện.
Ngày 13/04/2017 và 14/04/2017, ông Th thuê một số người đến công ty TZM đe dọa và đòi lại tiền. Ngày 18/04/2017, ông Th tiếp tục thuê người đến công ty phá hỏng camera, dùng dao đe dọa phải chuyển số tiền 400.000.000 đồng vào số tài khoản 6110205061980 AGRIBANK Bình Triệu do Nguyễn Văn H đứng tên (Hậu là người đi chung với nhóm đến phá công ty). Do hoảng sợ nên ngày 26/04/2017 ông Đỗ Thành Tâm giám đốc công ty đã chuyển 400.000.000 đồng và nghĩ đây là số tiền công ty hỗ trợ cho lại ông Th.
Đến khoảng đầu tháng 10/2017, thì mẹ của ông Th là bà Nguyễn Ngọc T dẫn theo người tiếp tục đến công ty yêu cầu phải tiếp tục chuyển vào tài khoản của bà số tiền 400.000.000 đồng mặc dù công ty trình bày rằng đã chuyển khoản 400.000.000 đồng vào tháng 04/2017.
Trong thời gian từ tháng 10/2017 đến tháng 04/2018, ông Th liên tục chửi bới và bôi nhọ công ty trên mạng xã hội, cho giang hồ theo dõi, kéo người lên tiếp tục quậy phá công ty. Điều này trực tiếp ảnh hưởng đến các dự án mà công ty đang làm việc với đối tác. Đã có các đối tác, ca sĩ đang chuẩn bị hợp tác với công ty, nhưng khi thấy ông Th có những phát ngôn không đúng mực về công ty, các đối tác đã quyết định không hợp tác với công ty nữa. Mãi đến khi biết không thể đòi được tiền thì ông Th mới đi kiện công ty.
Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Trường Th, không đồng ý trả tiền vì công ty không vi phạm gì và ông Th cưỡng đoạt của công ty 400.000.000 đồng công ty đã chuyển khoản vào tháng 4/2017. Công ty TZM bị nhiều thiệt hại nhưng không đi khởi kiện hay phản tố vì thấy mất quá nhiều thời gian và vì ông Th là đối tác công ty đào tạo nên công ty không muốn làm lớn chuyện.
Ngoài trình bày nêu trên, bị đơn không có lời trình bày nào khác vì không đến tòa theo các giấy triệu tập của Tòa án, cũng như không gửi văn bản nêu ý kiến khác và các chứng cứ tài liệu kèm theo.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Ngọc T trình bày:
Bà Nguyễn Ngọc T là mẹ ruột của ông Nguyễn Trường Th. Ông Nguyễn Trường Th và Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z có ký kết Hợp đồng hợp tác số 00120016/HĐHT ngày 27/7/2016 về việc “cùng nhau hợp tác để xúc tiến kế hoạch phát triển ca sĩ” và Phụ lục hợp đồng đính kèm số 0012016A/PL HĐHT, số tiền mà ông Th phải thanh toán cho Công ty TZM theo hợp đồng hợp tác nêu trên là 1.500.000.000 đồng.
Ngày 02/8/2016 bà T có chuyển số tiền 750.000.000 đồng vào tài khoản của ông Đỗ Thanh T là giám đốc Công ty TZM. Ngày 28/11/2016 bà T chuyển tiếp số tiền 250.000.000 đồng vào tài khoản của ông T. Ngày 13/01/2017 bà T chuyển hết số tiền còn lại là 500.000.000 đồng cho ông T. Tổng cộng bà T đã chuyển khoản đầy đủ số tiền là 1.500.000.000 đồng vào tài khoản của ông Đỗ Thanh T giám đốc Công ty TZM. Số tiền này là của bà T cho con mình là Nguyễn Trường Th để ký kết và thực hiện hợp đồng với Công ty TZM.
Sau đó, bà T được biết video âm nhạc đầu tiên với tên gọi “Có Những Yêu Thương” của con bà đã không thành công như mong đợi, vì không thể hợp tác cùng nhau nữa nên hai bên đã đi đến quyết định thanh lý hợp đồng. Tuy nhiên, ông Th nhiều lần liên lạc với Công ty TZM để yêu cầu thanh lý hợp đồng theo như thoả thuận các bên đã thống nhất nhưng phía công ty nhiều lần lấy lý do chưa tính toán xong chi phí, bận công việc để tránh né việc thanh lý hợp đồng, không trả lại tiền cho ông Th.
Khoảng tháng 03 năm 2017, Công ty TZM có gửi cho ông Th thông báo số 001/2017 ngày 16/03/2017 về việc yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng và Thông báo số 002/2017 ngày 21/03/2017 về việc ông Th tự ý chấm dứt và vi phạm hợp đồng Để giải quyết việc thanh lý hợp đồng và làm rõ việc tại sao Công ty TZM lại gửi cho ông Th 02 thông báo trên, ông Th đã cố gắng liên lạc với ông Đỗ Thanh T giám đốc công ty TZM qua điện thoại, tin nhắn, email nhưng phía công ty cố ý lẩn tránh, không trả lời điện thoại cũng như email của ông Th nhằm áp đặt việc vi phạm hợp đồng cho ông Th.
Việc ông Đỗ Thanh T giám đốc công ty TZM cung cấp cho Tòa án chứng từ giao dịch của ngân hàng Agribank thể hiện số tiền 400.000.000 đồng (bốn trăm triệu đồng) chuyển vào tài khoản của ông Nguyễn Văn H với nội dung “EM TAM CK CHO ANH VINH”, bà T hoàn toàn không biết và không liên quan gì đến số tiền này. Vì nếu ông T nói là công ty chuyển tiền trả cho bà T và ông Th thì tại sao không chuyển vào tài khoản của bà T theo thông tin tài khoản trước đây bà đã chuyển tiền cho ông T và công ty TZM.
Bà Nguyễn Ngọc T thống nhất với ý kiến trình bày và yêu cầu của nguyên đơn, ngoài ra bà không có ý kiến yêu cầu gì khác.
Ngày 24/05/2023, nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên ý kiến yêu cầu như trình bày nêu trên, ngoài ra không có ý kiến yêu cầu gì khác.
Bị đơn Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z đến phiên tòa lần thứ hai vẫn vắng mặt không rõ lý do.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh phát biểu ý kiến (theo Phát biểu số 155/PB-DS ngày 21/06/2023):
- về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và trong việc xét xử sơ thẩm vụ án.
- về việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự. Bị đơn từ khi thụ lý đến phiên tòa xét xử bị đơn không thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự.
- về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Tranh chấp giữa các bên trong vụ án là tranh chấp hợp đồng dân sự, bị đơn Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z có trụ sở tại quận Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục:
Nguyên đơn ông Nguyễn Trường Th, người đại diện ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Đăng Quốc và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Ngọc T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, xét thấy Đơn đề nghị xét xử vắng mặt khi Tòa án mở phiên tòa của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận đơn và tiến hành xét xử vắng mặt các đương.
Bị đơn Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z đã được Toà án nhiều lần thông báo, triệu tập đến Toà để giải quyết vụ án. Việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng được thực hiện hợp lệ, đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự nhưng đến phiên tòa lần hai bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do.
Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự quy định đương sư có nghĩa vụ chứng minh, nhưng bị đơn không đến tòa, cũng như không cung cấp các tài liệu, chứng cứ nên Tòa án căn cứ những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc để giải quyết theo quy định tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về yêu cầu của đương sự:
Nguyên đơn Nguyễn Trường Th yêu cầu bị đơn Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z trả cho ông Nguyễn Trường Th số tiền tổng cộng là 1.020.300.000 đồng (một tỷ không trăm hai mươi triệu ba trăm nghìn đồng), yêu cầu trả làm một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy:
- Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và trình bày của các đương sự có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở xác định giữa nguyên đơn và bị đơn có ký Hợp đồng hợp tác số 00120016/HĐHT ngày 27/07/2016 và Phụ lục hợp đồng đính kèm số 0012016A/PL HĐHT về việc “cùng nhau hợp tác để xúc tiến kế hoạch phát triển ca sĩ”, thời hạn hợp đồng bắt đầu từ ngày 27/7/2016 đến hết ngày 27/12/2017, thời hạn này có thể kéo dài theo sự thỏa thuận giữa hai bên, giá trị hợp đồng là 1.500.000.000 đồng.
- Hợp đồng hợp tác số 00120016/HĐHT ngày 27/07/2016 và Phụ lục hợp đồng đính kèm số 0012016A/PL HĐHT giữa ông Nguyễn Trường Th và Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z được ký kết trên cơ sở tự nguyện, có chủ thể, hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 388, Điều 389, Điều 401, Điều 402, Điều 408 Bộ Luật dân sự 2005.
- Căn cứ sao kê Ngân hàng Liên Việt chi nhánh Đồng Tháp của bà Nguyễn Ngọc T thì bà T đã chuyển 1.500.000.000 đồng vào tài khoản số 213393639 của ông Đỗ Thành Tâm giám đốc Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z tại Ngân hàng ACB – PGD Bà Chiểu, đây là số tài khoản của công ty TZM được ghi trong hợp đồng, bà T xác nhận số tiền trên là bà cho ông Nguyễn Trường Th để ký kết và thực hiện hợp đồng với Công ty TZM. Tại bản khai ngày 14/03/2019 bị đơn thừa nhận và không có ý kiến về số tiền 1.500.000.000 đồng đã nhận của nguyên đơn, nên có cơ sở xác định ông Nguyễn Trường Th đã thanh toán đủ số tiền 1.500.000.000 đồng cho Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z theo hợp đồng đã ký kết.
- Nguyên đơn yêu cầu Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z trả lại số tiền là 1.020.300.000 đồng, đây là số tiền còn lại sau khi trừ các khoản chi phí các bên đã sử dụng trong quá trình hợp tác là 479.700.000 đồng, do công ty không thực hiện đúng thỏa thuận theo hợp đồng và phụ lục hợp đồng. Bị đơn Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z không đồng ý thanh toán cho nguyên đơn vì cho rằng hợp đồng vẫn đang được thực hiện, ông Th tự ý chấm dứt hợp đồng là vi phạm nghĩa vụ với công ty. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, các tin nhắn, email trao đổi giữa ông Nguyễn Trường Th và ông Đỗ Thành Tâm giám đốc đại diện công ty TZM, có cơ sở xác định giữa hai bên đã thống nhất việc không tiếp tục hợp đồng, tuy nhiên việc tính toán chi phí đã sử dụng, số tiền còn lại giữa các bên chưa thống nhất được nên chưa tiến hành thanh lý hợp đồng.
- Xét thấy Hợp đồng hợp tác số 00120016/HĐHT ngày 27/07/2016 và Phụ lục hợp đồng đính kèm số 0012016A/PL HĐHT ký kết giữa nguyên đơn và bị đơn có thời hạn 18 tháng, sản phẩm cam kết thực hiện theo hợp đồng là 03 sản phẩm âm nhạc và 03 MV chuyên nghiệp, tuy nhiên các bên đã thực hiện hợp đồng hơn 6 tháng nhưng chỉ có sản phẩm là 01 MV “Có những yêu thương”, do đó có đủ cơ sở xác định việc thực hiện hợp đồng chỉ được một phần nhỏ so với cam kết, đồng thời từ sau khi tòa án thụ lý giải quyết vụ án đến khi xét xử bị đơn không cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh các chi phí đã sử dụng trong quá trình thực hiện hợp đồng của mình. Căn cứ các bảng báo giá chi phí đã sử dụng nguyên đơn cung cấp, gồm Bảng báo giá do công ty TZM gửi cho nguyên đơn với số tiền dư là 685.000.000 đồng, Bảng báo giá thực chi sau khi đối chiếu với Bảng giá chi tiêu nôi bộ của công ty với số tiền thực chi sau khi nguyên đơn tính toán lại là 479.700.000 đồng và số tiền dư là 1.020.300.000 đồng, thì việc nguyên đơn đồng ý với chi phí hợp lý là 479.700.000 đồng là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải hoàn trả số tiền còn lại của hợp đồng là 1.020.300.000 đồng.
- Về trình bày của bị đơn về việc ông Nguyễn Trường Th và bà Nguyễn Ngọc T cưỡng đoạt của bị đơn số tiền 400.000.000 đồng, căn cứ Chứng từ giao dịch ngày 26/04/2017 nội dung “EM TAM CK CHO ANH VINH” của Ngân hàng Agribank chi nhánh Phan Đình Phùng địa chỉ 55 Phan Đình Phùng phường 17 quận Phú Nhuận thành phố Hồ Chí Minh, về việc chuyển số tiền 400.000.000 đồng vào số tài khoản 6110205061980 AGRIBANK Bình Triệu do Nguyễn Văn H đứng tên, Thông báo số 1367/TB ngày 11/07/2020, Quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm số 294 ngày 09/11/2020 và Công văn số 1603/CV-CQĐT(CSHS) ngày 20/05/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, có thể xác định ông Đỗ Thành Tâm giám đốc Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z có chuyển 400.000.000 đồng cho Nguyễn Thanh Hậu, tuy nhiên bị đơn không cung cấp được chứng cứ chứng minh ông Nguyễn Thanh Hậu có liên quan đến ông Nguyễn Trường Th và bà Nguyễn Ngọc T, đồng thời vụ việc này ông Đỗ Thành Tâm đã làm đơn tố giác tội phạm và được Công an quận Bình Thạnh xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.
- Sau khi tòa án thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần triệu tập bị đơn Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa xét xử nhưng đến lần thứ hai mở phiên tòa bi đơn vẫn không có mặt, không có ý kiến phản hồi, cũng như không cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Việc này thể hiện ý thức chấp hành pháp luật không nghiêm, xem thường pháp luật, đồng thời bị đơn đã tự từ bỏ quyền trình bày nhằm bảo vệ quyền lợi của mình tại tòa. Hội đồng xét xử xét thấy trên thực tế, nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu bị đơn trả lại tiền nhưng đến nay bị đơn vẫn không thực hiện, nếu tiếp tục kéo dài thời gian trả nợ sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu buộc bị đơn phải trả tiền cho nguyên đơn làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Trường Th được chấp nhận nên bị đơn Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z phải chịu tiền án phí là 42.609.000 đồng (bốn mươi hai triệu sáu trăm lẻ chín ngàn đồng) theo quy định tại Điều 147 Bộ Luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 388, Điều 389, Điều 401, Điều 402, Điều 408 của Bộ Luật dân sự năm 2005 và Điều 357, Điều 468 và Điều 688 của Bộ Luật dân sự năm 2015;
Căn cứ Luật thi hành án dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – Nguyễn Trường Th.
Buộc Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z phải trả cho ông Nguyễn Trường Th số tiền tổng cộng là 1.020.300.000 đồng (một tỷ không trăm hai mươi triệu ba trăm nghìn đồng), trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày ông Nguyễn Trường Th có đơn yêu cầu thi hành án, Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z chậm thi hành số tiền nêu trên thì Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Công ty TNHH Giải trí và truyền thông Z phải chịu án phí là 42.609.000 đồng (bốn mươi hai triệu sáu trăm lẻ chín ngàn đồng).
Hoàn lại tiền tạm ứng án phí 21.304.000 đồng (hai mươi mốt triệu ba trăm lẻ bốn ngàn đồng) cho ông Nguyễn Trường Th theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0004818 ngày 20/06/2018 của Chi cục thi hành án dân sự quận Bình Thạnh.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 12 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đương sự không có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án 1130/2023/DS-ST về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Số hiệu: | 1130/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 21/06/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về