TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Đ - TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 112A/2020/HS-ST NGÀY 04/12/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Trong các ngày từ ngày 30 tháng 11 năm 2020 đến ngày 04 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 90/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2020/QĐXXST – HS ngày 30 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Nam H, sinh ngày 03 tháng 10 năm 1966; nơi sinh: thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: khu 3, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lái xe ô tô; trình độ văn hóa: lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình Q (đã chết) và bà Nguyễn Thị P(đã chết); vợ là Nguyễn Thị H; có 02 con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 29/01/1996, bị Tòa phúc thẩm - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 12 tháng tù về tội "Tổ chức đánh bạc". Chấp hành xong hình phạt ngày 15/3/1997 và ngày 28/01/2008, bị Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh B xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án về tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" theo khoản 1 Điều 202 BLHS 1999. Bị cáo hiện tại ngoại tại nơi cư trú, có mặt.
- Bị hại: anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1971 (đã chết ngày 11/7/2020).
Đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1931 (là mẹ của anh Th); chị Dương Thị T, sinh năm 1975 (là vợ của anh Th); anh Nguyễn Văn M, sinh 1998 (là con của anh Th); đều trú tại thôn Đ, xã A, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh.
Bà Nguyễn Thị M, chị Dương Thị T ủy quyền cho anh Nguyễn Văn M tham gia tố tụng tại phiên tòa, anh Nguyễn Văn M vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Nguyễn Thành H, sinh năm 1993.
Địa chỉ: khu 3, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.
- Người làm chứng:
+ Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1973.
Địa chỉ: khu 3, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.
+ Anh Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1993.
Địa chỉ: khu 3, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Nam H (có giấy phép lái xe hạng C). Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 10/7/2020, H điều khiển xe ô tô tải nhãn hiệu SUZUKI, biển kiểm soát 14C-308.56, đi từ hướng Quốc lộ 18 vào đường tỉnh lộ 183 xã N, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, ngồi ở ghế phụ bên phải trong cabin có chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1973 (là vợ của H). Khi cách ngã 3 đường rẽ vào thôn 7, xã N khoảng 10m (Đoạn đường này mới đưa vào sử dụng, hiện chưa có hệ thống biển báo), H giảm tốc độ đồng thời bật tín hiệu đèn xi nhan bên trái của xe ôtô để báo hiệu rồi điều khiển xe chuyển hướng rẽ trái. Cùng lúc đó xe mô tô Honda Wave biển kiểm soát 14K6 - 7101, do anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1971, trú tại thôn Đ, xã A, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh điều khiển đang di chuyển theo hướng ngược chiều từ xã N đi ra Quốc lộ 18. Do xe ô tô của H đã di chuyển chiếm hết ngang lòng đường tỉnh lộ 183 (phần đường của xe ngược chiều) và khoảng cách gần, anh Th không xử lý được, nên đầu xe mô tô do anh Th điều khiển đâm vào phần đầu bên phải và cánh cửa bên phải xe ô tô của H, dẫn đến xe mô tô bị đổ văng sang trái nằm ở giữa đường, còn anh Th bị va đập vào phần đầu xe ô tô của H rồi ngã đập đầu xuống nền đường. Thấy vậy, H đạp phanh, rồi tiếp tục điều khiển xe ô tô di chuyển đi vào hướng thôn 7, xã N khoảng 10 m thì dừng lại. Hậu quả: Anh Th bị thương tích nặng và tử vong trên đường đưa đi cấp cứu.
Kết quả khám nghiệm hiện trường thể hiện: Nơi xẩy ra tai nạn mặt đường trải nhựa bê tông tương đối bằng phẳng, thẳng, không có vật che khuất tầm nhìn, có hệ thống đèn điện cao áp chiếu sáng bên phía Nam đường. Giữa tâm đường có vạch sơn màu vàng đứt đoạn chia hai phần đường đi ngược chiều nhau, mỗi phần đường đều rộng 3,6m. Phía Đông hiện trường là cầu B và hướng đi ra đường Quốc lộ 18; Phía Tây hiện trường là hướng đi xã Ủy ban nhân dân xã N; Phía Nam hiện trường là hướng đi thôn 7, xã N; Phía Bắc hiện trường giáp mương nước và khu ruộng lúa.
- Xe mô tô biển kiểm soát 14K6-7101 nằm đổ nghiêng sang trái và nằm ở giữa tâm đường, đầu xe quay chếch hướng Đông Nam. Tâm trục lốp trước cách mép vạch sơn vàng về phía Bắc là 0,5cm. Tâm trục lốp sau cách mép vạch sơn vàng về phía Nam là 0,5m.
- 01 vết phanh lết lốp dài 1,5m nằm trên phần đường hướng đi ra Quốc lộ 18 có độ cong theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, điểm đầu phía Đông cách mép vạch sơn vàng về phía Bắc là 1,3m, cách mép ngã 3 đường rẽ vào thôn 7, xã N là 2,3 m, điểm đầu phía Tây cách mép vạch sơn vàng về phía Bắc là 2,3m.
- 01 đám máu dạng vũng nằm trên phần đường hướng đi xã N có kích thước (2 x 1)m. Tâm đám máu cách mép đường về phía Bắc là 2,5m, cách tâm trục lốp sau xe mô tô 14K6 - 7101 về phía Tây là 1,2m.
- 01 đám mảnh nhựa vỡ do xe mô tô biển kiểm soát 14K6-7101 tạo ra kích thước (6 x 6,2)m, nằm tập trung trên phần đường hướng đi Quốc lộ 18.
- Xe ô tô biển kiểm soát 14C - 308.56 dừng đỗ trên đường bê tông hướng đi thôn 7, xã N đầu xe quay hướng Nam, tâm trục lốp trước, lốp sau bên trái cách mép đường về phía Đông lần lượt là 1,2m và 1,8m và cách mép đường tỉnh lộ 183 về phía Bắc là 10,8m.
Biên bản thực nghiệm điều tra (dựng lại hiện trường) thể hiện: Thời điểm xẩy ra va chạm giữa xe ô tô của Nguyễn Nam H điều khiển với xe mô tô do anh Nguyễn Văn Th điều khiển, thì phần thân xe ô tô của H đã nằm chiếm hết ngang lòng đường của phần đường dành cho hướng xe đi từ xã N ra đường Quốc lộ 18.
Kết quả khám nghiệm các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông:
- Xe ô tô biển kiểm soát 14C - 308.56: Trượt xước nhựa mặt ngoài đèn xi nhan trước bên phải kích thước (22 x 3,5)cm, điểm đầu cách mặt đất 99cm. Trượt xước kim loại, cong vênh, bẹp lõm tai xe bên phải kích thước (56 x 41)cm (hai dầu vết này hướng từ trước về sau, từ phải sang trái); Mặt ngoài la răng lốp trước bên phải trượt xước kim loại, rách kim; Toàn bộ cánh cửa trước bên phải cong vênh, bẹp lõm, trượt rách kim loại kích thước (87 x 92)cm, hướng từ trước về sau, phải sang trái, có bám dính sơn màu xanh; Dập vỡ toàn bộ mặt gương chiếu hậu bên phải.
- Xe mô tô biển kiểm soát 14K6-7101: Nhựa ốp đầu xe bị gẫy, vỡ, bật khỏi vị trí ban đầu; Gẫy, bật đèn pha xi nhan trước 2 bên; Trượt xước kim loại đầu tay nắm ghi đông bên phải, bên trái; Gẫy vỡ cánh yếm 2 bên; Lan hoa, vành trước cong vênh, biến dạng, thủng, rách, hết hơi lốp trước; Toàn bộ càng, giảm xóc, bánh trước cong vênh, biến dạng, hướng trước về sau, từ phải sang trái; Giá để chân trước bên phải cong, gập, tỳ sát vào lốc máy...
Tại biên bản khám nghiệm tử thi và Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 107/20/TT (ngày 13/7/2020) của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Anh Nguyễn Văn Th bị rách trán phải kích thước (4 x 5)cm bờ mép nham nhở, sỡ nắn thấy lún, lõm, vỡ xương trán trên diện (12 x 6)cm. Gẫy vỡ xương trán ổ mắt phải; Gẫy xương gò má phải, gẫy xương chính mũi. Gẫy xương hàm trên vị trí kẽ răng 2.3, 2.4; Gẫy xương sườn 3,4,5; Trật khớp vai trái, gẫy hở độ III 1/2 dưới xương đùi phải, vỡ xương bánh chè phải. Nguyên nhân tử vong do chấn thương hàm mặt, sọ não kín - Chấn thương ngực kín + Đa chấn thương phối hợp.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 40/KL-HĐĐGTS, ngày 10/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Đ, kết luận: Giá trị tài sản bị hư hỏng của xe mô tô biển kiểm soát 14K6 - 7101 là 787.500đ (Bảy trăm tám bẩy ngàn năm trăm đồng).
Nguyên nhân xảy ra tai nạn do Nguyễn Nam H điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 14C - 308.56 khi chuyển hướng rẽ trái không chú ý quan sát, không nhường đường cho xe đi ngược chiều, đã vi phạm khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ.
Điều 15 Luật giao thông đường bộ quy định:
“...
2. Trong khi chuyển hướng, người lái xe phải ... nhường đường cho các xe đi ngược chiều và chỉ cho xe chuyển hướng khi quan sát thấy không gậy trở ngại hoặc nguy hiểm cho người và phương tiện khác.
...”.
Đối với xe ô tô biển kiểm 14C - 308.56 và xe mô tô biển kiểm soát 14 K6 - 7101, quá trình điều tra ngày 26/3/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả các phương tiện trên cho anh Nguyễn Thành H (là con trai H) và anh Nguyễn Văn M (là con trai anh Th).
Phần dân sự: Bị can Nguyễn Nam H và gia đình đã tự nguyện thỏa thuận, bồi thường cho đại diện hợp pháp của người bị hại là anh Nguyễn Văn M số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng). Anh M không yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Nam H.
Quá trình điều tra, Nguyễn Nam H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên. Tại bản Cáo trạng số: 100/CT – VKS-DT ngày 12 tháng 10 năm 2010, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn Nam H về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Nam H đã khai nhận toàn bộ diễn biến sự việc cũng như hành vi của bị cáo đã thực hiện như đã nêu trên, về trách nhiệm dân sự, bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại với số tiền là 100.000.000đồng, đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm.
Đại diện hợp pháp của bị hại anh Nguyễn Văn M trình bày với nội dung: Khoảng 19 giờ 45 phút, ngày 10/7/2020, bố anh là ông Nguyễn Văn Th điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 14K6-7101 tham gia giao thông trên đường tỉnh lộ 183, khi đến đoạn đường thuộc thôn 7, xã N, thị xã Đ thì xảy ra tai nạn giao thông với xe ô tô biển kiểm soát 14C – 308.56 do Nguyễn Nam H điều khiển, hậu quả bố anh bị tử vong. Sau khi sự việc xảy ra, anh H đã bồi thường cho gia đình anh với số tiền là 100.000.000đồng. Nay anh và gia đình không yêu cầu bị cáo Nguyễn Nam H phải bồi thường thêm, đồng thời anh đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Nam H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Thành H trình bày với nội dung: Anh Nguyễn Thành H là con của bị cáo Nguyễn Nam H, khoảng 19 giờ 30 phút ngày 10/7/2020, anh H nhận được thông tin bố anh là Nguyễn Nam H điều khiển ô tô và xảy ra va chạm giao thông, sau khi nhận được thông tin trên, anh đã đến hiện trường để xem xét sự việc thế nào, đối với xe ô tô biển kiểm soát 14C – 308.56 do Nguyễn Nam H điều khiển gây tai nạn giao thông là xe thuộc sở hữu của anh H, trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã trả lại anh xe ô tô này và anh không có yêu cầu gì.
Người làm chứng chị Nguyễn Thị H và anh Trần Mạnh Ph có lời khai phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo H về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Nam H từ 12 (mười hai) tháng đến 15(mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án, được trừ đi những ngày bị cáo bị tạm giữ.
Bị cáo không tranh luận với nội dung luận tội của Kiểm sát viên và tại lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng: Những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Đ, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Đ, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và hình phạt:
2.1 Về tội danh:
Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của đại diện diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng; phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra, biên bản khám nghiệm tử thi, bản kết luận giám định pháp y về tử thi, kết luận định giá tài sản cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 10/7/2020, tại khu vực ngã 3 giao nhau giữa đường tỉnh lộ 183 với đường bê tông liên thôn đi vào thôn 7, xã N , thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Nam H đã có hành vi điều khiển xe ô tô tải nhãn hiệu SUZUKI, biển kiểm soát 14C - 308.56 theo hướng từ đường Quốc lộ 18 vào đường Tỉnh lộ 183 rồi chuyển hướng rẽ trái để đi vào thôn 7, xã N. Do chuyển hướng rẽ sang trái không đúng quy định, không nhường đường cho xe đi ngược chiều dẫn đến xe mô tô biển kiểm soát 14 K6 - 7101 do anh Nguyễn Văn Th đi ngược chiều đến đâm vào bên phải phần đầu xe và cánh cửa bên phải xe ô tô, làm anh Th tử vong, xe mô tô bị hư hỏng, thiệt hại 787.500đ (Bảy trăm tám bẩy ngàn năm trăm đồng).
Hành vi của bị cáo Nguyễn Nam H đã vi phạm khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ. Do hậu quả làm 01 người chết nên hành vi của bị cáo Nguyễn Nam H đã phạm vào tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự, như Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì hành vi đó xâm phạm đến sự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ cũng như sự an toàn của tính mạng, sức khoẻ và tài sản của người khác khi tham gia giao thông.
2.2 Về hình phạt:
Về hình phạt chính: Bị cáo mặc dù đã bị kết án nhưng đã được xóa án tích, chấp hành đúng chính sách pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ công dân ở nơi cư trú, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà xử phạt bị cáo hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách và giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách, cũng không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội là phù hợp với quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự.
Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 260 của Bộ luật hình sự thì bị cáo còn có thể cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo có địa chỉ cư trú rõ ràng, bản thân có nhận thức tốt sau khi vi phạm, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[3] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Nam H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Nam H đã bồi thường thiệt hại cho đại diện hợp pháp của bị hại; qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo được Chủ tịch nước tặng thưởng 02 Huân chương chiến công và 01 Huy chương chiến sỹ vẻ vang vì đã có thành tích trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu ở biên giới phía Bắc; sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú và được đại diện hợp pháp của bị hại xin miễn trách nhiệm hình sự. Vì vậy, bị cáo Nguyễn Nam H được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về trách nhiệm dân sự:
Đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Đối với xe ô tô biển kiểm 14C - 308.56 và xe mô tô biển kiểm soát 14 K6 - 7101, quá trình điều tra ngày 26/3/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả các phương tiện trên cho anh Nguyễn Thành H (là con trai H) và anh Nguyễn Văn M (là con trai anh Th) nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
- Đối với 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C, số 220087005857 mang tên Nguyễn Nam H, do Sở giao thông vận tải Quảng Ninh cấp ngày 15/02/2109 đang lưu giữ trong hồ sơ vụ án, xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung cấm hành nghề đối với bị cáo, nên trả lại bị cáo Nguyễn Nam H.
[6] Về xử lý biên pháp ngăn chặn:
Ngày 12 tháng 10 năm 2020, Tòa án nhân dân thị xã Đ áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với bị cáo Nguyễn Nam H với thời hạn 60 ngày, kể từ ngày 12 tháng 10 năm 2020. Do bị cáo bị áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo nên Hội đồng xét xử hủy bỏ biện pháp ngăn chăn nêu trên đối với bị cáo.
[7] Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Nam H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
- Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Nam H phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Nam H 15 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 30 tháng, tính từ ngày tuyên án, ngày 04 tháng 12 năm 2020.
Giao bị cáo Nguyễn Nam H cho Uỷ ban nhân dân phường Đ, thị xã Đ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục.
Trường hợp bị cáo Nguyễn Nam H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về xử lý biện pháp ngăn chặn:
Căn cứ: Điểm d khoản 1 Điều 125 của Bộ luật tố tụng hình sự Hủy bỏ: Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 16/2020/HSST-LCĐKNCT ngày 12 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh đối với Nguyễn Nam H.
3. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ: điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Trả lại bị cáo Nguyễn Nam H 01 giấy phép lái xe số ô tô hạng C, số 220087005857, do Sở giao thông vận tải Quảng Ninh cấp ngày 15/02/2109.
4. Về án phí:
Căn cứ: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 21, Điểm a khoản 1 Điều 23 Danh mục án phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/ UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Nam H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo:
p dụng: Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.
Bản án 112A/2020/HS-ST ngày 04/12/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 112A/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về