Bản án 112/2022/HSST về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 112/2022/HSST NGÀY 27/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:

116/2022/HSST, ngày 02 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 125/2022/QĐXXST-HS, ngày 15 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Lò Văn L; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1969 tại xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản H, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 7/10; nghề nghiệp: Trồng trọt; giới tính: Nam; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lò Ph, sinh năm: 1939 và bà Lò Thị P, sinh năm: 1944; bị cáo có vợ: Quàng Thị L; sinh năm: 1982 và 6 con, lớn nhất sinh năm: 1994, nhỏ nhất sinh năm: 2014; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Ngày 16/4/1998 bị Toà án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 15 (mười lăm) năm tù về tội: Mua bán trái phép chất ma tuý; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 10/3/2022, đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 15 giờ 00 phút, ngày 10/3/2022, tại khu vực Bản H, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Lò Văn L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:

01 gói nilon màu xanh, bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng nghi là Heroine (Lò Văn L khai là Heroine), có khối lượng 0,51 gam, trích rút toàn bộ 0,51 gam ký hiệu L1 làm mẫu vật gửi giám định và 08 (tám) viên nén hình trụ tròn màu hồng nghi là ma tuý tổng hợp (Lò Văn L khai là ma tuý tổng hợp), có khối lượng 0,84 gam, trích rút toàn bộ 0,84 gam ký hiệu L2 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

Kết luận giám định số: 457/KL-PC09, ngày 11/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “Mẫu gửi giám định ký hiệu L1 là ma túy, loại Heroine, khối lượng gửi giám định là 0,51 gam. Mẫu vật gửi giám định ký hiệu L2 là ma tuý, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,84 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,51 gam loại Heroine và 0,84 gam, loại Methamphetamine”. (Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L1 và chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L2 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng L1 = 0,22 gam, T2 = 0,41 gam).

Tại cơ quan điều tra bị cáo Lò Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khong 13 giờ 30 phút, ngày 10/3/2022, Lò Văn L đi bộ một mình từ nhà ở Bản H, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La lên khu vực bản TA, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mục đích tìm mua ma túy sử dụng. Đến nơi, Lò Văn L gặp một người đàn ông dân tộc Thái (Lò Văn L không biết họ tên và địa chỉ cụ thể) và hỏi mua được một gói ma tuý, được gói bằng nilon màu xanh bên trong có chứa chất bột màu trắng và 08 viên ma tuý tổng hợp với giá 800.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý, Lò Văn L cất gói ma tuý vào túi quần đằng trước bên phải đang mặc rồi đi bộ về nhà. Khi Lò Văn L đi đến khu vực Bản H, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì gặp Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La yêu cầu kiểm tra ma túy. Quá trình kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Lò Văn L về hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số: 67/CT-VKS, ngày 31/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Lò Văn L về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh tụng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn L về điểm, điều, khoản và tội danh trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lò Văn L mức án từ 30 (ba mươi) đến 36 (ba mươi sáu) tháng tù.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Lò Văn L.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy: 0,22 gam ma tuý loại Heroine; 0,41 gam ma tuý loại Methamphetamine + 01 mảnh nilon màu xanh + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Bị cáo Lò Văn L phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Ý kiến của bị cáo Lò Văn L: Nhất trí như bản luận tội của Viện kiểm sát, nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Ngày 10/3/2022, Lò Văn L bị phát hiện và bắt quả tang về hành vi cất giữ trái phép 0,51 gam ma tuý, loại Heroine và 0,84 gam ma tuý, loại Methamphetammine, tổng khối lượng hai chất ma tuý là 1,35 gam. Mục đích cất giữ để sử dụng cho bản thân tại khu vực Bản H, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.

Lời khai nhận tội của bị cáo Lò Văn L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định chất ma tuý và các tài liệu khác có trong hồ sơ.

Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo Lò Văn L mục đích để sử dụng cho bản thân, khối lượng ma túy không lớn, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác là nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật.

Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Lò Văn L thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có một tiền án, đã được đương nhiên xoá án tích, là nhân thân xấu.

[3]. Bị cáo Lò Văn L đang bị tạm giam, tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, không có thu nhập. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng vụ án: Đối với 0,22 gam ma tuý loại Heroine và 0,41 gam ma tuý, loại Methamphetammine là hàng quốc cấm, Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần được tuyên tiêu huỷ; đối với 01 mảnh nilon màu xanh + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu xét không còn giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6]. Về nguồn gốc số ma túy, Lò Văn L khai mua của người đàn ông dân tộc Thái tại Bản TA, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La với giá 800.000 đồng vào ngày 10/3/2022, tuy nhiên Lò Văn L không biết họ tên và địa chỉ cụ thể ở đâu. Do vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La không có căn cứ để điều tra xử lý, cần được chấp nhận.

[7]. Về án phí: Bị cáo Lò Văn L phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Xử phạt bị cáo Lò Văn L 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam giữ (ngày 10/3/2022).

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tiêu hủy:

- Một phong bì niêm phong có viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn L - TTTPCMT, bắt ngày 10/3/2022. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 026881 đè lên các mép dẫn của phong bị và trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu. Bên trong có: Một mảnh nilon màu xanh + Một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

- Một phong bì màu trắng niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng vụ: Lò Văn L - TTTPCMT, xảy ra ngày 10/3/2022, gồm có: 01 vỏ phong bị niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + 01 túi nilon màu trắng chứa chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L1 và 01 túi nilon màu trắng chứa chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L2, không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng L1 = 0,22 gam và L2 = 0,41 gam. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 081121 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có 03 dòng chữ ký kèm 03 dòng họ tên và 02 hình dấu đỏ của phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01 tháng 6 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La).

3. Về Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14; ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Lò Văn L phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Lò Văn L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 27/6/2022)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 112/2022/HSST về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:112/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;