Bản án 112/2021/HS-ST về tội chứa mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 112/2021/HS-ST NGÀY 18/05/2021 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 18 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 113/2021/HSST ngày 26 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 137/2021/QĐXXST - HS ngày 04 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Thị L; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Sinh ngày: 09/5/1972 tại xã QN, huyện Q, tỉnh T; Nơi cư trú: Xóm 6, xã DT, huyện D, tỉnh N; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Chức vụ trước khi phạm tội: Không; Trình độ học vấn: 0/12; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Họ và tên cha: Phạm Văn Ch, sinh năm 1940; Họ và tên mẹ: Vũ Thị T, sinh năm: 1941; Anh chị em ruột: Có 08 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Chồng: Nguyễn Giang N, sinh năm: 1977; Con: Có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2013; Tiền án, Tiền sự: Không.

Nhân thân: - Tại bản án số 26/2004/HSST ngày 14/4/2004 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh N xử phạt Phạm Thị L 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Chứa mại dâm”.

- Tại bản án số 66/2006/HSST ngày 28/7/2006 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh N xử phạt Phạm Thị L 12 tháng tù về tội “Chứa mại dâm”. Ngày 26/7/2017, chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 22/8/2020 đến ngày 22/9/2020 hủy bỏ biện pháp tạm giam, áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Chị Phạm Thùy D, sinh năm 2005 Trú tại: thôn Đ, xã QN, huyện Q, tỉnh T (vắng mặt);

2. Chị Phạm Thị X, sinh năm 2003 Trú tại: thôn Đ, xã QN, huyện Q, tỉnh T (vắng mặt);

Người đại diện theo pháp luật của chị D và chị X: Ông Phạm văn Ch, sinh năm 1979 Trú tại: thôn Đ, xã QN, huyện Q, tỉnh T (vắng mặt);

3. Anh Nguyễn Văn Ng, sinh năm 1992 Trú tại: xóm H, xã DB, huyện D, tỉnh N (vắng mặt);

4. Chị Trần Thị B, sinh năm 1993 Trú tại: khối 2, thị trấn D, huyện D, tỉnh N (vắng mặt);

5. Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1992 Trú tại: khối 10, thị trấn T, huyện T, tỉnh N (vắng mặt);

6. Anh Võ Hồng T, sinh năm 1983 Trú tại: xóm 1, xã DQ, huyện D, tỉnh N (vắng mặt);

7. Chị Phạm Thị H, sinh năm 9183 Trú tại: thôn Đ, xã QN, huyện Q, tỉnh T (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 21/8/2020, Phạm Thị L đang ngồi nói chuyện với Trần Thị B, sinh năm 1993, trú tại khối 2, thị trấn D, huyện D, tỉnh N tại ghế đá khuôn viên Nhà nghỉ KT thuộc xóm 10, xã DT, huyện D, tỉnh N do L quản lý và làm chủ thì có Nguyễn Văn Ng, sinh năm 1992, trú tại xóm H, xã DB, huyện D, tỉnh N; Nguyễn Văn D, sinh năm 1992, trú tại khối 10, thị trấn T, huyện T, tỉnh N và Võ Hồng T, sinh năm 1983, trú tại xóm 1, xã DQ, huyện D, tỉnh N đến với mục đích để mua dâm. Tại đây, Ng hỏi L “Có con em mô không chị?”; L hiểu ý Ng muốn tìm người bán dâm nên trả lời “Quán có một em thôi”; Ng nói “Giờ ba người đi kiểu răng”; L nói “Để chị kiếm thêm cho một em nữa, còn một chú đi quán khác”, Ng đồng ý. Sau đó, Võ Hồng T đi cùng Trần Thị B rời khỏi nhà nghỉ KT, còn Ng và D đi cùng L vào bên trong nhà nghỉ. Trên đường đi, Ng hỏi L “Chị ơi giá mấy?”; L trả lời “Giá 250.000 đồng/01 lượt”; Ng nói “Chị ơi, lấy tiền luôn này”; L nói “Anh em vô nghỉ thoải mái đi, tý trả tiền sau”. Khi đi vào khu vực sân nhà nghỉ, L nói “H ơi đi khách” rồi nói với Ng và D “Một em vào phòng số 08 còn một em vào phòng số 04 chờ tý”. Sau đó, Nguyễn Văn Ng, Nguyễn Văn D đi vào ngồi tại bàn uống nước ở sân nhà nghỉ KT thì thấy Phạm Thị H, sinh năm 1982, trú tại thôn Đ, xã QN, huyện Q, tỉnh T đang ngồi tại bàn. Ngoài ra, tại đây còn có Phạm Thùy D, sinh năm 2005 và Phạm Thị X, sinh năm 2003 đều trú tại thôn Đ, xã QN, huyện Q, tỉnh T là những người mà Phạm Thị L thuê để làm giúp việc. Lúc này, Ng gọi lấy hai lon nước bò húc để uống thì X đi lấy. Sau khi uống nước xong, D và H đi vào phòng số 08 nhà nghỉ KT rồi đóng cửa lại, cởi hết quần áo để thực hiện hành vi quan hệ tình dục (giao cấu) còn Ng đi vào phòng số 04 nằm chờ. Đến khoảng 21 giờ 50 phút cùng ngày, lực lượng Công an huyện D tiến hành kiểm tra nhà nghỉ KT, Phạm Thị H nghe tiếng ồn ào nên mặc lại quần áo, mở cửa bỏ chạy ra ngoài sân còn D đang nằm ở trong phòng số 08 nhà nghỉ. Kiểm tra tại phòng số 5 có Phạm Thị X, phòng số 3 có Phạm Thùy D, phòng số 4 có Nguyễn Văn Ng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản sự việc, thu giữ tại phòng số 04 và phòng số 05 của nhà nghỉ 02 (Hai) bao cao su nhãn hiệu VIP Condom, màu vàng trắng, chưa qua sử dụng và dẫn giải các đối tượng có liên quan về trụ sở để tiếp tục điều tra, làm rõ.

Ngày 22/8/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện D tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Phạm Thị L.

Tại Cơ quan CSĐT, Phạm Thị L khai nhận, quá trình quản lý nhà nghỉ KT L đã nảy sinh ý định chứa mại dâm nên đã sắp xếp, bố trí Phạm Thị H ở trong nhà nghỉ, khi có khách hàng có nhu cầu mua dâm thì L sẽ để H bán dâm đồng thời thỏa thuận với số tiền 250.000 đồng có được từ việc bán dâm, L được hưởng 50.000 đồng còn H được hưởng 200.000 đồng.

- Về vật chứng: Thu giữ của Phạm Thị L 02 bao cao su nhãn hiệu VIP condom màu trắng chưa qua sử dụng.

Nguyễn Văn Ng đã tự nguyện giao nộp số tiền 500.000 đồng là tiền sử dụng vào mục đích mua dâm.

Bản cáo trạng số 61/CT-VKS-DC ngày 16 tháng 03 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện D đã truy tố bị cáo Phạm Thị L về tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại khoản 1 điều 327 Bộ luật hình sự.

Luận tội tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 327; điểm s, t khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị L từ 18 đến 21 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 42 tháng. Về hình phạt bổ sung: áp dụng khoản 5 điều 327: phạt tiền bổ sung đối với bị cáo từ 20 đến 25 triệu đồng.

Xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 điều 106 BLTTHS: Tịch thu sung quỹ số tiền 500.000 đồng là khoản tiền thu lợi bất chính; Tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su không còn giá trị sử dụng.

Án phí: bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội thực hiện đúng như cáo trạng quy kết và nhất trí với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa; Bị cáo không tranh luận gì thêm, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Khoảng 21 giờ 50 phút ngày 21/8/2020, tại nhà nghỉ KT thuộc xóm 10, xã DT, huyện D, tỉnh N; khi Phạm Thị L đang có hành vi cho Nguyễn Văn D và Phạm Thị H mua, bán dâm tại nhà nghỉ thuộc quyền quản lý của mình thì bị Tổ công tác Công an huyện D, tỉnh N kiểm tra, phát hiện và bắt giữ. Hành vi của Phạm Thị L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại khoản 1 điều 327 Bộ luật hình sự.

Bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, động cơ, mục đích thu lợi bất chính. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập có tại hồ sơ vụ án thì đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Phạm Thị L phạm tội “Chứa mại dâm”, được quy định tại khoản 1 điều 327 của Bộ luật hình sự.

[3]. Đánh giá tính chất vụ án thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, gây ảnh hưởng xấu trật tự và an toàn xã hội và gây ra nhiều hậu quả ảnh hưởng tới sức khỏe, đời sống vật chất và văn hóa tinh thần, gây dư luận xấu trong nhân dân nên cần xử lý nghiêm đối với bị cáo nhằm đảm bảo tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm.

[4]. Về vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: không Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo lập thành tích trong việc phát hiện, tố giác tội phạm, được Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 2, Bộ tư lệnh cảnh sát bển và Công an xã DT biểu dương xác nhận. Do đó, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại các các điểm s, t khoản 1, khoản 2 điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ phần nào mức hình phạt. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, ổn định, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự xử cho bị cáo được hưởng án treo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục là đủ nghiêm.

Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 327 BLHS: “Người phạm tội có thể phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng”. Xét bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị xét xử về tội “Chứa mại dâm” nhưng không có ý thức tu dưỡng, rèn luyện cải tạo bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội, bị cáo có thu nhập ổn định nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền để sung quỹ nhà nước, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

Đối với Nguyễn Văn D và Phạm Thị H là những người mua dâm và bán dâm, do hành vi vi phạm hành chính nên Công an huyện D đã ra các Quyết định xử phạt hành chính số 49, 50/QĐ-ĐCSHS ngày 04/02/2021 là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật.

Đối với Phạm Thị X, Phạm Thùy D và Nguyễn Văn Ng tuy chưa thực hiện hành vi mua bán dâm nhưng là những người có ý định thực hiện hành vi mua bán dâm. Nguyễn Văn Ng là người trực tiếp đặt vấn đề với bị cáo L về việc mua dâm, đã tự nguyện giao nộp số tiền 500.000 đồng là số tiền mua dâm. Vì vậy, việc Cơ quan điều tra giáo dục, nhắc nhở về ý thức pháp luật là cần thiết.

[5]. Xử lý vật chứng: Cần tịch thu sung quỹ nhà nước toàn bộ số tiền 500.000 đồng tiền mua dâm thu là khoản tiền thu lợi bất chính liên đến hành vi phạm tội. Tịch thu tiêu hủy 03 bao cao su đã thu giữ không còn giá trị sử dụng.

[6]. Về án phí hình sự: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[7]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

 - Khoản 1, khoản 5 Điều 327; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điều 65 của Bộ luật hình sự;

- Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14  ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về tội danh và hình phạt:

- Tuyên bố bị cáo Phạm Thị L phạm tội “Chứa mại dâm” - Xử phạt: bị cáo Phạm Thị L 18 (mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (18/5/2021).

- Về hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung công quỹ nhà nước.

Trong thời gian thử thách giao bị cáo Phạm Thị L cho UBND xã DT, huyện D, tỉnh N giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo điều 92 Luật thi hành án hình sự.

“Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) thu của Nguyễn Văn Ng là khoản tiền liên quan đến hành vi phạm tội hiện đang được niêm phong lưu gửi tại Kho bạc Nhà nước huyện D theo Biên bản bàn giao, tiếp nhận tài sản để bảo quản số 91/2020/BBBG - CADC và Phiếu nhập kho ngày 04 tháng 12 năm 2020.

Tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su Vip Condom màu trắng vàng, tình trạng chưa qua sử dụng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện D theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23 tháng 03 năm 2021

3. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Thị L phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 112/2021/HS-ST về tội chứa mại dâm

Số hiệu:112/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;