Bản án 112/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội trộm cắp tài sản và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 112/2021/HS-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 26 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 129/HSST ngày 31 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2021/QĐXXST - HS ngày 29/12/2021 đối với các bị cáo:

1. Dư Văn L - sinh năm 1982 tại Thanh Hóa. Nơi cư trú: thôn Đ, xã M, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dư Văn D (đã mất) và bà Lê Thị L2; vợ: Nguyễn Thị C và 02 con; Tiền án: không; Tiền sự: Ngày 18/9/2020 TAND huyện N, tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; tạm giữ: ngày 20/10/2020; tạm giam: ngày 26/10/2020 “có mặt”.

2. Nguyễn Văn Đ - sinh năm 1993 tại Thanh Hóa. ĐKHK: L, phường L, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Nơi ở: D, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn M và bà Phạm Thị C2; Tiền án: Năm 2018 bị TAND thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: không; Nhân thân: Năm 2017 bị Công an phường Đ, thành phố Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác”, năm 2017 Công an phường Đ, thành phố Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi “hủy hoại tài sản người khác”; tạm giam: ngày 20/11/2020, “có mặt”.

Bị hại:

1. Anh Nguyễn Đình T - SN 1986 “vắng mặt’ Trú tại: Thôn C, xã Q, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa.

2. Anh Lê Thanh T2 - SN 1983 “vắng mặt” Trú tại: chung cư M, phường Đ, TP T.

3. Cháu Đinh Việt A - SN 2004 “vắng mặt” Trú tại: Phố K, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa Người đại diện hợp pháp: Chị Nguyễn Thị T3 - SN 1978 (mẹ đẻ cháu A) Địa chỉ: Phố K, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa 4. Anh Đỗ Văn P - SN 1974 “vắng mặt” Địa chỉ: xã Q, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa 5. Chị Trần Thị L2 - SN 1961 “vắng mặt’ Địa chỉ: Thôn Y, xã Y, huyện N, tỉnh Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng thời gian từ ngày 16/10/2020 đến ngày 20/10/2020, Dư Văn L thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố T và huyện N như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 15h30 ngày 16/10/2020, Dư Văn L một mình đi đến khu vực phường Đ, thành phố T để trộm cắp tài sản. Khi đến trước nhà V, phường Đ, thành phố V, Dư Văn L thấy 01 xe mô tô YAMAHA SIRIUS màu đỏ, BKS:

36L6-3161 của anh Nguyễn Đình T dựng trước nhà. Sau khi quan sát thấy không có người trông coi , L dùng 01 chìa khóa đã chuẩn bị sẵn bẻ khóa để trộm cắp xe. Sau khi lấy được xe, L đi thẳng về nhà cháu mình là Trần Xuân T3, sinh năm 1986, trú tại thôn X, xã Q, thành phố V. L nói với Tiến là xe của bạn L và nói gửi nhờ ở đây vài ngày sau sẽ quay lại lấy. Khi được Cơ quan CSĐT Công an thành phố V thông báo chiếc xe trên là vật chứng của vụ án, anh Tiến đã tự giác giao nộp cho Cơ quan điều tra.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 281/KL-HĐĐGTS ngày 22/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thuộc UBND TP. V kết luận giá trị của chiếc xe mô tô trên 5.000.000đ (Năm triệu đồng). Chiếc xe máy trên Cơ quan Công an đã trả lại cho anh T, anh T không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Vụ thứ hai: Khoảng 15h30 ngày 17/10/2020, Dư Văn L một mình đi bộ đến trước Tòa nhà V, Đại lộ L, phường Đ, thành phố V thì thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu HADOSIVA, BKS: 36F4-0160 của anh Lê Thanh T2. Quan sát thấy không có người trông coi, L phá khóa xe rồi trộm chiếc xe, sau đó đi về nhà của Nguyễn Văn Đ ở D, phường N, TP V. Tại đây L tháo biển số xe, nhờ Đ cất giấu biển số xe rồi điểu khiển xe đi về Phố M, phường Q, thành phố V. Đến trước nhà ông Nguyễn Lê T4, sinh năm 1973 trú tại Phố M, xã Q, thành phố V, L để chiếc xe máy này ở đây và tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản khác.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 281/KL-HĐĐGTS ngày 22/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thuộc UBND TP. V kết luận giá trị của chiếc xe mô tô trên là 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Chiếc xe máy trên Cơ quan Công an đã trả lại cho anh T2, anh T2 không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Vụ thứ ba: Khoảng 20h30 ngày 17/10/2020, Sau khi trộm cắp chiếc xe nhãn hiệu HADOSIVA, BKS: 36F4-0160 tại trước tòa nhà V, phường Đ, TP V, Dư Văn L điều khiển chiếc xe đến khu vực Phố M, phường Q, thành phố V. Khi đến trước nhà của ông Nguyễn Lê T4 thì L thấy 01 xe máy nhãn hiệu DAELIMIKD, BKS:

36AB-25463 màu trắng của cháu Đinh Việt A, L để lại chiếc xe máy HADOSIVA ở lại và bẻ khóa xe máy DAELIMIKD rồi lái xe đi về nhà Nguyễn Văn Đ ở D, phường N, thành phố V. L nói với Đ đây là chiếc xe vừa trộm cắp được và ngỏ ý bán cho Đ, Đ đồng ý mua lại với giá 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 281/KL-HĐĐGTS ngày 22/10/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng thuộc UBND TP. V kết luận giá trị của chiếc xe môtô trên là 4.000.000đ (Bốn triệu đồng). Chiếc xe máy trên Cơ quan Công an đã trả lại cho chị Thương, chị Thương không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Vụ thứ tư: Khoảng 16h ngày 19/10/2020, Dư Văn L một mình đi đến trước nhà hàng C ở N, phường Đ, thành phố V thì nhìn thấy 01 xe Wave Anpha màu đen, BKS: 36P2- 6420 của anh Đỗ Văn P. Quan sát thấy không có người trông coi, L tiếp tục dùng 01 chìa khóa chuẩn bị sẵn bẻ khóa và trộm cắp chiếc xe trên. Sau khi lấy được xe, L điều khiển xe đi hướng QL45 đến gần cầu B, phường Đ, thành phố V thì L tháo biển số xe và vứt bên đường. Sau đó L tiếp tục đi về huyện N, tỉnh V. Khi dến nhà ông Trịnh Duy H, sinh năm 1977, trú tại thôn Đ, xã V, huyện N, tỉnh V thì L có hỏi ông H để bán xe. Vì thấy xe không có giấy tờ và không có biển kiểm soát nên ông H không mua. L nói với ông H là cho gửi nhờ xe ở đây và hẹn hôm sau sẽ quay lại lấy. Đến ngày 21/10/2020, khi được cơ quan điều tra thông báo chiếc xe trên là vật chứng của vụ án, ông H đã tự giác giao nộp cho cơ quan công an.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 281/KL-HĐĐGTS ngày 22/10/2020 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thuộc UBND TP. V kết luận giá trị của chiếc xe mô tô trên là 6.000.000đ (Sáu triệu đồng). Chiếc xe máy trên Cơ quan Công an đã trả lại cho anh P, anh P không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Vụ thứ năm: Khoảng 9h ngày 20/10/2020, Dư Văn L một mình đi bộ đến chợ C, thị trấn N, tỉnh Thanh Hóa thì thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave Anpha màu xanh, BKS: 36K4-7690 của chị Trần Thị L2. Quan sát thấy không có người trông coi, L phá khóa xe và trộm cắp chiếc xe máy trên rồi đi xe về thành phố V để tiêu thụ. Sau đó do nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, Dư Văn L đã đến Cơ quan điều tra Công an thành phố V xin đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình và giao nộp cho Cơ quan điều tra chiếc xe trên. Ngày 05/11/2020 Cơ quan CSĐT Công an TP V đã bàn giao vật chứng nêu trên cho Cơ quan CSĐT Công an huyện N. Đến ngày 18/11/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án đến Cơ quan CSĐT Công an TP V để điều tra xử lý.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 49/KL-HĐĐGTS ngày 30/10/2020 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thuộc UBND huyện N kết luận giá trị của chiếc xe mô tô trên là 7.000.000đ (Bảy triệu đồng). Chiếc xe máy trên Cơ quan Công an đã trả lại cho chị L2, chị L2 không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Đối với xe mô tô Wave Anpha màu đen, Dư Văn L sau khi trộm đã tháo biển kiểm sát: 36P2-6420 và vứt bên đường QL1A gần cầu B thuộc phường Đ, TP V. Cơ quan CSĐT Công an TP V đã tiến hành truy tìm vật chứng là 01 biển kiểm soát: 36P2-6420 nhưng không tìm thấy.

Đối với 01 chiếc chìa khóa bằng kim loại, trên bề mặt khắc số: 9281733 gắn móc hình vuông ghi số 214 là công cụ, P tiện để Dư Văn L bẻ khóa xe mô tô. Quá trình điều tra xác định chiếc chìa khóa nêu trên là L lấy tại nhà nghỉ T, địa chỉ Q, phường Đ, TP V. Hiện tang vật trên đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự TP. Thanh Hóa để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với Trịnh Duy H, Trần Xuân T3 là người cho L gửi nhờ xe trộm cắp nhưng không biết đây là tài sản do L trộm cắp mà có nên không có căn cứ để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá truy tố Dư Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS; Nguyễn Văn Đ về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 BLHS.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị HĐXX:

- Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo Dư Văn L từ 24 đến 27 tháng tù.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 09 đến 12 tháng tù.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý về vật chứng và án phí.

Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiền hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại cùng các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở chứng minh: Từ ngày 16/10 đến ngày 20/10/2020 Dư Văn L đã thực hiện 05 hành vi trộm cắp tài sản tại thành phố V và huyện N gồm: của anh Nguyễn Đình T 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS màu đỏ giá trị 5.000.000 đồng; của anh Lê Thanh T2 01 xe máy nhãn hiệu HADOSIVA giá trị là 2.500.000 đồng; của cháu Đinh Việt A 01 xe máy nhãn hiệu DAELIMIKD màu trắng trị là 4.000.000 đồng; của anh Đỗ Văn P 01 xe máy nhãn hiệu Wave Anpha màu đen trị giá 6.000.000đ; của chị Trần Thị L2 01 xe máy Wave Anpha màu xanh trị giá 7.000.000đ. Tổng tài sản L đã trộm cắp là 24.500.000đ. Nguyễn Văn Đ biết tài sản L trộm cắp mà có nhưng vì hám lợi nên đồng ý mua xe máy DAELIMIKD của cháu Đinh Việt A với giá 1.200.000đ.

Mặc dù bị cáo Dư Văn L đã thực hiện hành vi phạm tội 05 lần nhưng bị cáo làm lao động tự do (buôn bán). Việc bị cáo phạm tội mục đích là để lấy tiền mua ma túy sử dụng không phải làm nguồn sống chính và làm nghề sinh sống nên không áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp cho bị cáo là phù hợp.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi phạm tội của Dư Văn L có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của BLHS. Bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 BLHS như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Tính chất vụ án:

Đối với tội trộm cắp tài sản: Lợi dụng chủ sở hữu tài sản sơ hở trong việc quản lý tài sản, bị cáo L đã nhanh chóng lén lút chiếm đoạt tài sản rồi tẩu thoát. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không những đã xâm phạm đến trật tự trị an nói chung mà còn xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân nói riêng, do đó cần được xử lý nghiêm minh.

Đối với tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có: mặc dù bị cáo Đ biết rõ tài sản do bị cáo L trộm cắp nhưng do hám lợi và xem thường pháp luật nên bị cáo đã mua tài sản trên. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không những xâm phạm trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội mà còn tạo điều kiện khuyến khích người khác đi vào con đường phạm tội.

[4] Trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Các bị cáo có nhân thân xấu đã được các cơ quan pháp luật giáo dục nhưng không chịu cải sửa mà còn tiếp tục phạm tội. Do bị cáo L thực hiện nhiều lần hành vi trộm cắp tài sản nên phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS là phạm tội 02 lần trở lên theo điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS. Bị cáo Đ có 01 tiền án chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Với nhân thân của các bị cáo và tính chất vụ án thì việc cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo nên khi áp dụng hành phạt cần căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo. Tình tiết giảm nhẹ riêng cho bị cáo L là đầu thú, bố mẹ là người có công với cách mạng theo khoản 2 Điều 51 BLHS.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Đình T, anh Lê Thanh T2, cháu Đinh Việt A, anh Đỗ Văn P, chị Trần Thị L2 đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm nên công nhận phần dân sự giữa bị cáo và các bị hại đã được giải quyết xong.

[6] Về vật chứng: Đối với 01 chiếc chìa khóa bằng kim loại mà L sử dụng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy. Đối với số tiền 1.200.000đ mà bị cáo L bán xe trộm cắp cho bị cáo Đ là tiền do phạm tội mà có nên truy thu từ bị cáo L khoản tiền này để nộp vào ngân sách nhà nước. Căn cứ khoản 1, điểm a,b,c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự (đối với bị cáo L). Khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS (đối với bị cáo Đ). Khoản 1, điểm a,b,c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Dư Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Xử phạt:

- Bị cáo Dư Văn L 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/10/2020.

- Bị cáo Nguyễn Văn Đ 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/11/2020.

Về trách nhiệm dân sự: Công nhận phần dân sự giữa bị cáo và các bị hại đã được giải quyết xong.

Về vật chứng: Truy thu từ bị cáo Dư L L số tiền 1.200.000đ để nộp vào ngân sách Nhà nước.

Tịch thu, tiêu hủy 01 chìa khóa bằng kim loại, trên bề mặt khắc số: 9281733, được gắn kèm móc hình vuông ghi số 214 hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 88/THA ngày 20/01/2021).

Án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Các bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án đối với khoản tiền án phí, tiền truy thu theo quy định tại các điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 112/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội trộm cắp tài sản và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:112/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;