Bản án 112/2019/HS-ST ngày 15/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 112/2019/HS-ST NGÀY 15/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 114/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2019/HSST-QĐ ngày 02 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo sau đây:

Họ và tên: Lò Văn N (tên gọi khác: Không), sinh năm 1980; Nơi sinh: Sông Mã - Sơn La. Nơi ở và ĐKHKTT: Bản NT, xã CS, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ Đảng phái, Đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn H (đã chết) và bà Tòng Thị O; Sống chung như vợ chồng với chị Lường Thị D có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2004. Tiền sự, tiền án: Không.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Lường Thị D, sinh năm 1982, trú tại bản NT, xã CS, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/6/2019 cho đến nay có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 12 giờ 15 phút ngày 21/6/2019 tổ công tác Công an huyện Sông Mã phối hợp với Công an xã CS làm nhiệm vụ tuần tra tại bản N, xã CS, huyện Sông Mã phát hiện bắt quả tang Lò Văn N đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ tại lòng bàn tay trái của N 01 gói nilon màu xanh bên trong chứa 01 cục nhỏ chất bột liên kết màu trắng và một mảnh viên nén màu hồng (N khai nhận là Heroine và hồng phiến). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang niêm phong vật chứng và tạm giữ phương tiện xe mô tô BKS 26C1-066.24.

Ngày 22/6/2019 tại Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn L dã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, lấy mẫu trưng cầu giám định: kết quả cân tịnh mảnh viên nén màu hồng có khối lượng 0,06 gam, kết quả giám định là mà túy loại Methamphetaine. Kết quả cân tịnh số bột màu trắng có khối lượng 0,08 gam, kết quả giám định là ma túy loại Heroine Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Lò Văn N sử dụng ma túy từ năm 2018. Khoảng 09 giờ ngày 21/6/2019 N điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 26C1-066.24 từ nhà lên bản N, xã NT để tìm mua ma túy sử dụng, đến đầu bản NS, N gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đang đứng ven đường 01 gói ma túy được gói bằng nilon màu xanh bên trong chứa một mảnh viên hồng phiến và một ít Heroine với giá 50.000 đồng mua được ma túy N cầm trong lòng bàn tay trái và điều khiển xe ra về, đến khu vực bản N, xã CS, huyện Sông Mã thì bị tổ công tác Công an huyện Sông Mã và Công an xã CS làm nhiệm vụ kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng nêu trên.

Do các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số: 115/CT-VKSSM, ngày 18 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo Lò Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Lò Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt: Lò Văn N từ 16 đến 20 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với nội dung cáo trạng đã truy tố và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa, không có tranh luận gì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ và các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, lời khai của bị cáo tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi phạm tội: Bị cáo Lò Văn N là người có nhận thức, biết được mọi hành vi liên quan đến ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện chất ma túy ngày 21/6/2019, bị cáo đi mua và cố ý tàng trữ 0,06 gam Methamphetamine và 0,08 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ sau:

Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 20 phút ngày 21/6/2019 tại bản N, xã CS, huyện Sông Mã đối với Lò Văn N cùng vật chứng thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong có 01 mảnh viên nén màu hồng và 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà.

Biên bản mở niên phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong vật chứng hồi 10 giờ 00 phút ngày 22/6/2019 và kết luật giám định số 1143 ngày 24/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Chất gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine và Heroine.

- Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện tội phạm cùng các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của Lò Văn N đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Xét về tính chất và mức độ của hành vi phạm tội: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng mặc dù nhận thức được mọi hành vi liên quan đến chất ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Cần xử lý thật nghiêm minh đối với bị cáo.

[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo tuy chưa có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu là đối tượng nghiện chất ma túy, do đó cần có một mức án tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, đảm bảo biện pháp răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong toàn xã hội đồng thời để bị cáo từ bỏ chất ma túy.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, nhận tội là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Xét về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản riêng có giá trị, nên không áp dụng đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về các đối tượng, tình tiết có liên quan: Đối với người đàn ông dân tộc Mông tại bản N, xã NT bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo vào ngày 21/6/2019, Cơ quan điều tra không xác định được đối tượng cụ thể ngoài lời khai của bị cáo ra không có căn cứ nào khác, nên CQĐT không có căn cứ để xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 mảnh nilon màu xanh; 01 mảnh nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì thư niêm phong ban đầu là những vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với chiếc xe mô tô hiệu Yamaha BKS 26C1-06624 xác định là tài sản chung của gia đình bị cáo, việc bị cáo mang đi mua ma túy gia đình không biết nên cần trả lại cho chị Lường Thị D (vợ bị cáo).

[8] Về án phí: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn thuộc dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biết khó khăn và tại phiên tòa bị cáo đề nghị HĐXX xin được miễn án phí nên cần miễn án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lò Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

2. Xử phạt bị cáo Lò Văn N 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/6/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh nilon màu xanh; 01 mảnh túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì thư niêm phong ban đầu. (Vật chứng niêm phong theo quy định).

- Trả lại cho chị Lường Thị D 01 chiếc xe mô tô hiệu Yamaha, màu đỏ BKS 26C1-066.24, có số khung 007802, số máy 007811, đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản ngày 19/9/2019 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn N.

5. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 112/2019/HS-ST ngày 15/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:112/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;