Bản án 112/2019/HN-ST ngày 26/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ - TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 112/2019/HN-ST NGÀY 26/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 26 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 246/2019/TLST-DS ngày 14 tháng 5 năm 2019 về việc tranh chấp “ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2019/QĐXXST-HN ngày 18 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Võ Thị Huỳnh H, sinh năm 1990 (có mặt)

Trú tại: Thanh B, xã TL, huyện MT, tỉnh Vĩnh Long

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N A, sinh năm 1986 (vắng mặt).

Trú tại: Số 48/3 ấp HT, xã HN, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 13/5/2019 và tại phiên tòa - nguyên đơn Võ Thị Huỳnh H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn N A được gia đình hai bên tổ chức lể cưới vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Long, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long vào ngày 26/02/2015. Sau khi cưới, chị và anh N A thuê nhà trọ sống ở Bình Dương để đi làm, trong thời gian chung sống anh N A không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu, không lo cho vợ con. Từ đó, mâu thuẫn giữa chị và anh N A ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn, bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, nên chị và anh N A đã không còn sống chung từ năm 2016 cho đến nay, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, vì vậy chị H yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn N A.

Về con chung: Chị H và anh N A có 01 con chung là Nguyễn Võ Tuấn K sinh ngày 03/9/2015 hiện do chị H nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị H yêu cầu nuôi con chung, không yêu cầu anh N A cấp dưỡng nuôi con Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn N A không có văn bản nêu ý kiến về các yêu cầu của chị H.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ:

1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

* Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử:

- Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 28, Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 197 BLTTDS năm 2015.

- Việc xác định tư cách những người tham gia tố tụng đúng theo quy định tại Điều 68 BLTTDS - Tòa án có tiến hành thu thập chứng cứ bằng hình thức lấy lời khai xác minh đúng quy định tại Điều 98 Bộ luật tố tụng dân sự.

Thời hạn chuẩn bị xét xử được đảm bảo đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định tại Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự.

* Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa:

- Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân theo đúng các quy định của BLTTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

2. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

- Ngưi tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại các Điều 70, 71 và Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn đã được triệu hợp lệ, nhưng không có ý kiến và không có mặt tại Tòa án để giải quyết là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS.

3. Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Võ Thị Huỳnh H ly hôn với anh Nguyễn Văn N A.

- Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Võ Tuấn K sinh ngày 03/9/2015 cho chị Võ Thị Huỳnh H nuôi dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con: chị H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên không xét.

-Về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết, nên không xét

- Về nợ chung: không yêu cầu giải quyết, nên không xét.

- Về án phí: Buộc chị H nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là “ly hôn, nuôi con”, do bị đơn hiện đang cư trú tại xã Hòa Ninh, huyện Long Hồ, căn cứ vào quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long

[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Văn N A được triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh N A theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào giấy chứng nhận kết hôn số 12/2015, quyển số 01/2015 do Ủy ban nhân dân xã Tân Long, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long cấp ngày 26/02/2015 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh N A là hôn nhân hợp pháp.

Căn cứ vào biên bản xác minh ông Nguyễn Văn Nhiều là cha ruột của anh Nguyễn Văn N A ngày 18/7/2019 thì, giữa chị H và anh N A đã có nhiều mâu thuẫn rất trầm trọng, mỗi người sống một nơi, không thể hàn gắn được, ông đã hỏi ý kiến anh N A thì anh N A không có kiến gì về yêu cầu của chị H.

Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh N A đã có nhiều bất hòa, mâu thuẫn trầm trọng. Trên thực tế, đời sống hôn nhân giữa chị H và anh N A không còn gắn bó, mâu thuẫn kéo dài nhiều năm, cuộc sống chung của vợ chồng không hạnh phúc, vợ chồng không còn thương yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình, mạnh ai nấy sống, vợ chồng không sống chung từ năm 2016 đến nay nên tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng hàn gắn. Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình yêu cầu ly hôn của chị H là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị H được ly hôn với anh N A.

[4] Về con chung: Xét, yêu cầu của chị H yêu cầu được nuôi cháu Nguyễn Võ Tuấn K sinh ngày 03/9/2015 là có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ, cháu Khang từ lúc sinh ra cho đến nay do chị H nuôi dưỡng, anh N A không có ý kiến phản đối gì về yêu cầu nuôi con của chị H. Do đó, Hội đồng xét xử giao cháu Nguyễn Võ Tuấn Khang cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không yêu cầu anh N A cấp dưỡng nuôi con, nên không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Chị H không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét

[6] Nợ chung: Chị H khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, không xem xét.

[7] Về án phí sơ thẩm: Buộc chị H phải chịu 300.000đ tiền án phí Hôn nhân sơ thẩm.

[8] Xét, đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dận huyện Long Hồ tại phiên tòa là có cơ sở chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Võ Thị Huỳnh H được ly hôn với anh Nguyễn Văn N A.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Võ Tuấn K sinh ngày 03/9/2015 cho chị Võ Thị Huỳnh H tiếp tục nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Võ Thị Huỳnh H không yêu cầu anh Nguyễn Văn N A cấp dưỡng nuôi con chung, nên không xem xét.

4. Về tài sản chung: Chị H không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí sơ thẩm: Buộc chị Võ Thị Huỳnh H nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân sơ thẩm. Chị H đã nộp 300.000 đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0002397ngày 14/5/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ nên được khấu trừ qua.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Chị H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn N A được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 112/2019/HN-ST ngày 26/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:112/2019/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;