TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
BẢN ÁN 112/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 08 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 858/2019/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2019 về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2019/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 10 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 72/2019/QĐST-DS ngày 23 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Đình Ngọc T, sinh năm 1980;
Địa chỉ: Số 30/3 đường B (số mới 319/2 đường T), Phường N, thành phố V, tỉnh B (có mặt).
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1977;
Địa chỉ: Số 30/3 đường B (số mới 319/2 đường T), Phường N, thành phố V, tỉnh B (vắng mặt lần thứ hai không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Đình Ngọc T trình bày:
Bà và ông Nguyễn Văn A tự nguyện chung sống với nhau, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường N, thành phố V vào năm 2000. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến giữa năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình, quan điểm sống trái ngược nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi cọ với nhau. Ngoài ra do tính chất công việc nên ông A thường xuyên đi làm ăn xa, không có thời gian để quan tâm, chăm sóc đến vợ con nhưng khi về nhà thì ông A thường xuyên tụ tập bạn bè để chơi cờ bạc làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình. Nhiều lần bà đã cố gắng khuyên nhủ nhưng ông A không nghe khiến cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trở nên trầm trọng. Từ giữa năm 2018 mặc dù vẫn sống chung một nhà nhưng hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau. Nay bà xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn A .
Về con chung: Bà và ông A có 01 con chung là Nguyễn Quang T, sinh năm 1999. Do cháu T đã trưởng thành nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn ông Nguyễn Văn A mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án làm việc, không có ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu phat biêu ý kiến:
Về tố tụng: Trong qua trinh giai quyêt vu an Thẩm phán đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa Hôi đông xet xư va thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
Bà Lê Đình Ngọc T yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn A có địa chỉ cư trú tại thành phố Vũng Tàu. Căn cứ Điều 28; Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định đây là vụ án “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Văn A đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia giải quyết vụ án, triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông A là phù hợp quy định pháp luật.
[2]. Về nội dung:
Bà Lê Đình Ngọc T và ông Nguyễn Văn A tự nguyện tìm hiểu, chung sống có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên là hôn nhân hợp pháp.
Xét về tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông A thì thấy: Theo bà T thì nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình, quan điểm sống trái ngược nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi cọ với nhau. Ngoài ra do tính chất công việc nên ông A thường xuyên đi làm ăn xa, không có thời gian để quan tâm, chăm sóc đến vợ con nhưng khi về nhà thì ông A thường xuyên tụ tập bạn bè để chơi cờ bạc làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình. Nhiều lần bà đã cố gắng khuyên nhủ nhưng ông A không nghe khiến cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trở nên trầm trọng. Từ giữa năm 2018 mặc dù vẫn sống chung một nhà nhưng hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau. Trong thời gian sống ly thân vợ chồng không còn sự quan tâm, chăm sóc đến nhau.
Theo xác minh tại địa phương thì trong quá trình chung sống bà T và ông A có nhiều lần xảy ra cãi vã. Ngoài ra ông A thường xuyên chơi cờ bạc làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình và là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng.
Tại phiên tòa, bà T xác định không còn tình nghĩa vợ chồng đối với ông A, hai bên tuy sống chung một nhà nhưng đã sống ly thân từ giữa năm 2018 đến nay. Trong thời gian sống ly thân vợ chồng không còn sự quan tâm, chăm sóc đến nhau.
Xét thấy, mâu thuẫn xảy ra trong quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông A là có thật, vợ chồng cũng nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau, không có khả năng hàn gắn tình cảm. Do vậy, mâu thuẫn hôn nhân là trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T là phù hợp.
Về con chung: Bà Lê Đình Ngọc T và ông Nguyễn Văn A có 01 (một) con chung là Nguyễn Quang T, sinh năm 1999. Do cháu T đã trưởng thành nên bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3].Về án phí Dân sự sơ thẩm: Bà Lê Đình Ngọc T phải chịu 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 19; Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân va gia đình ; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Đình Ngọc T đối với ông Nguyễn Văn A .
1. Về hôn nhân: Bà Lê Đình Ngọc T ly hôn với ông Nguyễn Văn A .
2. Về con chung: Bà T và ông A có 01 (một) con chung là Nguyễn Quang T, sinh năm 1999. Cháu T đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
4. Về án phí Dân sự sơ thẩm: Bà Lê Đình Ngọc T phải chịu 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001249 ngày 23-8-2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vũng Tàu.
5. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án Dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 112/2019/HNGĐ-ST ngày 08/11/2019 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 112/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về