Bản án 112/2017/HSST ngày 28/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU - TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 112/2017/HSST NGÀY 28/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28/12/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu - 24 Hoàng Văn Thụ, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 115/2017/HSST ngày 28/11/2017 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị L - Sinh năm 1992 tại tỉnh Quảng Nam. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã Đ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Trình độ văn hóa: 9/12. Con ông Nguyễn Đức Th và bà Thái Thị Kim Th (sống). Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai.

Tiền án, tiền sự : Chưa.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 14.9.2017, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thị Yến L - Sinh ngày 16/11/1999 tại thành phố Đà Nẵng. Nơi ĐKHKTT: Tổ 27 phường A, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã Đ, Điện Bàn, Quảng Nam Nghề nghiệp: Không. Trình độ văn hóa: 8/12. Con bà Nguyễn Thị H (sống), cha không rõ. Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền án, tiền sự : Chưa.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 14.9.2017, có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Thị Yến L: Bà Nguyễn Thị H - sinh năm: 1972; địa chỉ : Tổ 27 phường A, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, là mẹ của bị cáo L,(có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Yến L: Ông Chế Giang S; Địa chỉ: 218 Th, Đà Nẵng - Luật sư cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Đà Nẵng, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 20 giờ 30 phút ngày 14.9.2017, tại trước khách sạn Hoa Phong - số 369 đường N, thuộc phường Th, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Thị Yến L và Nguyễn Thị L đang chuẩn bị bán trái phép chất ma túy, tang vật thu giữ:

- Của Nguyễn Thị Yến L:

+ Trên tay phải của Ly 01 gói ni lông kích thước (07x05)cm, bên trong có chứa 10 (mười) viên nén, màu hồng, có hình mũi tên (là ma túy Nguyễn Thị L đưa cho L để giao cho người mua), niêm phong ký hiệu A.

+ Trong túi xách màu đà của L đang mang trên người: 02 gói ni lông đều có kích thước (07x05)cm, trong đó: 01 gói bên trong chứa 01 (một) viên nén, màu hồng, có hình mũi tên và 01 gói nilon chứa ½ (một phần hai) viên nén, màu hồng, có hình mũi tên, niêm phong ký hiệu B (là ma túy do bạn L cho nhưng L chưa sử dụng nên cất giữ).

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 358608041632199, bên trong có sim số: 01229.411.706 (của P, sử dụng liên lạc mua bán ma túy).

+ 01 điện thoại di động hiệu Wiko, màu đen, số Imei 1: 358714070413855, số Imei 2: 358714070464155, bên trong có sim số: 0905.446.296 và sim số: 01679.859.895 (của L, có sử dụng liên lạc mua bán ma túy).

- Của Nguyễn Thị L: 01 xe môtô hiệu Yamaha Ultimo BKS 74H2-5404, số khung: P8207Y003637, số máy: 48P2003637 (Bút lục số: 07 đến 11).

Đến 01 giờ 10 phút ngày 15.9.2017, Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thị L tại thôn N, xã Đ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Theo Kết luận giám định số 522/GĐ-MT ngày 20.9.2017, của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Các viên nén hình mũi tên, màu hồng bên trong mẫu niêm phong ký hiệu A và B gửi giám định là ma túy, loại MDMA. Trọng lượng A = 3,476 gam; B = 0,516 gam.

Quá trình điều tra Nguyễn Thị L và Nguyễn Thị Yến L khai nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy như sau: Khoảng 19 giờ ngày 14.9.2017, khi L, L và P (chưa xác định được lai lịch), đang chơi tại nhà L thì P nói với L có người phụ nữ ở Đà Nẵng (Chưa xác định được lai lịch) hỏi mua 10 (mười) viên ma túy (thuốc lắc), giá 450.000 đồng/ 01 viên. Lành đồng ý bán, do không đủ tiền mua ma túy bán lại nên mượn điện thoại di động của Ly đi cầm cố lấy 3.000.000 đồng. Lành điều khiển xe môtô BKS 74H2-5404 chở Ly đi cầm cố điện thoại rồi đến phường Đ, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, mua 10 viên ma túy/ 3.500.000 đồng của người tên C (Chưa xác định được lai lịch). Khi đến trước khách sạn H, L đưa gói ma túy cho L vào khách sạn giao và lấy tiền thì bị phát hiện bắt quả tang như trên.

Đối với Nguyễn Thị Yến L: L không rủ L đi nhưng nghe P và L trao đổi thì L biết L ra Đà Nẵng bán ma túy. L chủ động đi là để đến Bệnh viện Đà Nẵng thăm người thân. Khi Lành chở L đi mua ma túy và nhờ L gọi điện thoại cho người mua hẹn địa điểm giao ma túy thì L biết rõ là L đi bán ma túy nhưng L vẫn tự nguyện giúp L. L đồng ý cầm ma túy vào khách sạn H để giao và nhận tiền giúp L. Ngoài ra, trước đó, có một người bạn (chưa xác định được lai lịch) cho L 1,5 viên ma túy nhưng L chưa sử dụng nên cất giấu trong túi xách và bị thu giữ như trên.

Nguyễn Thị L chưa kịp bán ma túy thì bị bắt nên chưa thu lợi bất chính. Nguyễn Thị Yến L chỉ giúp L bán ma túy chứ không hưởng lợi gì.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị L và Nguyễn Thị Yến L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bị cáo, có thái độ hợp tác tốt với cơ quan chức năng để điều tra, xử lý vụ án.

Tại bản cáo trạng số 109/CT-VKS ngày 27/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị L và Nguyễn Thị Yến L về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên nội dung Cáo trạng truy tố và đề nghị HĐXX:

- Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và Điều 33 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L mức án từ 24 (hai mươi bốn) tháng tù đến 30 (ba mươi) tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 69,74 và Điều 33 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Yến L mức án từ 18 (mười tám) tháng tù đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù.

* Về xử lý vật chứng : Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự và Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý :

- Tuyên tịch thu và tiêu hủy 2,438 gam mẫu A và toàn bộ vỏ gói mẫu hoàn lại sau giám định theo Kết luận giám định số 522/GĐ-MT ngày 20/9/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng và 01(một) túi xách màu đà.

- Tuyên tịch thu và sung công quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 358608041632199, bên trong có sim số: 01229.411.706 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Wiko, màu đen, số Imei 1: 358714070413855, số Imei 2: 358714070464155, bên trong có sim số: 0905.446.296 và sim số: 01679.859.895.

- Về án phí : Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay Luật sư Chế Giang S bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Yến L phát biểu luận cứ bào chữa và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2  Điều 46, Điều 69,74 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Yến L mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình.

- Bị cáo L trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái, rất hối hận. Bị cáo xin lỗi gia đình và xin HĐXX cho bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về hòa nhập với cộng đồng.

- Bị cáo L trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái, rất hối hận. Bị cáo xin lỗi gia đình và xin HĐXX cho bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hải Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Thị L và Nguyễn Thị Yến L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Lúc 20 giờ 30 phút ngày 14.9.2017, tại trước khách sạn H - số 369 đường N, thuộc phường Th, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Thị Yến L và Nguyễn Thị L đang chuẩn bị bán 3,476 gam ma túy loại MDMA cho một phụ nữ (chưa xác định được lai lịch) thì bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Xét tính chất của vụ án và hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy :

Các bị cáo nhận thức rõ mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền để tiêu xài và có ma túy để sử dụng nên các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc. Hành vi của các bị cáo thể hiện tính chất liều lĩnh và coi thường pháp luật. Do đó HĐXX thấy cần phải xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo. Trong vụ án này bị cáo Lành là người trực tiếp đi mua ma túy để bán cho người phụ nữ chưa xác định được họ tên địa chỉ, còn bị cáo L tuy không được lợi nhuận gì trong việc giúp L bán ma túy, nhưng bị cáo L tham gia tích cực, bị cáo lấy ma túy do L đưa để đi giao cho người mua ma túy và nhận tiền giúp L, nhưng chưa thực hiện được thì bị bắt quả tang. Do đó hành vi của các bị cáo là ngang nhau. HĐXX thấy cần phải xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. HĐXX thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn, gia đình bị cáo L có hoàn cảnh khó khăn, gia đình bị cáo L là hộ nghèo là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Bị cáo L khi phạm tội chưa thành niên nên hạn chế một phần khả năng nhận thức nên cần áp dụng thêm Điều 69, Điều 74 của Bộ luật hình sự để xử lý cũng có tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành người lương thiện.

- Xét lời đề nghị của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Yến L là có cơ sở nên cần được xem xét và chấp nhận.

* Về xử lý vật chứng:

- 2,438 gam mẫu A và toàn bộ vỏ gói mẫu hoàn lại sau giám định theo Kết luận giám định số 522/GĐ-MT ngày 20/9/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng. HĐXX thấy đây là vật cấm lưu hành nên cần áp dụng Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu và tiêu huỷ.

- Đối với 01 (một) chiếc túi xách màu đà của bị cáo Ly ma túy của bị cáo L, HĐXX thấy không còn giá trị sử dụng nên cần áp dụng Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu và tiêu huỷ.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 358608041632199, bên trong có sim số: 01229.411.706 và 01(một) điện thoại di động hiệu Wiko, màu đen, số Imei 1: 358714070413855, số Imei 2: 358714070464155, bên trong có sim số: 0905.446.296 và sim số: 01679.859.895 các bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Các vật chứng nêu trên hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27 tháng 11 năm 2017.

Đối với xe môtô hiệu Yamaha Ultimo BKS 74H2-5404, số khung: P8207Y003637, số máy: 48P2003637, xe này thuộc sở hữu của cha Nguyễn Thị L là ông Nguyễn Đức Th (Sinh năm: 1667; trú: Thôn N, xã Đ, Điện Bàn, Quảng Nam). Ông Th cho L mượn sử dụng, không biết Lành đi mua bán ma túy nên Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu trả lại xe cho ông Th là có căn cứ.

Đối với đối tượng tên P, C có hành vi mua bán ma túy, người phụ nữ mua ma túy của Nguyễn Thị L và Nguyễn Thị Yến L, chưa xác định được lai lịch cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đang tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.

Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Thị Yến L, do chưa đến mức truy cứu trách nhiệm nên Cơ quan Công an quận Hải Châu đã xử phạt hành chính là đúng quy định.

Án phí hình sự sơ thẩm các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị L và Nguyễn Thị Yến L phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy ”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 14 tháng 9 năm 2017.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 69 và Điều 74 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Yến L 18 (mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 14 tháng 9 năm 2017.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự và Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tuyên tịch thu và tiêu hủy 2,438 gam mẫu A và toàn bộ vỏ gói mẫu hoàn lại sau giám định theo Kết luận giám định số 522/GĐ-MT ngày 20/9/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- Tuyên tịch thu và tiêu hủy 01 (một) túi xách màu đà.

- Tuyên tịch thu và sung công quỹ nhà nước 01(một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, số Imei: 358608041632199, bên trong có sim số: 01229.411.706;

- Tuyên tịch thu và sung công quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Wiko, màu đen, số Imei 1: 358714070413855, số Imei 2: 358714070464155, bên trong có sim số: 0905.446.296 và sim số: 01679.859.895.

Các vật chứng nêu trên hiện nay Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27 tháng 11 năm 2017.

4. Án phí hình sự sơ thẩm các bị cáo Nguyễn Thị L và Nguyễn Thị Yến L mỗi bị cáo phải chịu là 200.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 112/2017/HSST ngày 28/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:112/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;