TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 11/2024/HS-ST NGÀY 21/03/2024 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 21/3/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2024/TLST-HS ngày 04/3/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2024/QĐXXST-HS ngày 07/3/2024 đối với bị cáo:
Phạm Thành T, sinh ngày 08/8/1988; Nơi sinh: tỉnh Long An; Nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Tài xế; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; Con ông Phạm Thành T và bà Huỳnh Thị X; Có vợ và 01 người con sinh năm 2021; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/7/2023 cho đến nay. (có mặt) Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn N-Thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung Tâm Trợ giúp Pháp lý Nhà nước tỉnh Sóc Trăng. (có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Võ Văn T, sinh năm 1973; Nơi cư trú: Số 16 L, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt) - Người làm chứng:
1. Ông Mã Thanh T, sinh năm 1985; Nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Long An. (vắng mặt)
2. Ông Trần Văn H, sinh năm 2003; Nơi cư trú: ấp P, xã S, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. (có đơn xin vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Thành T làm nghề tài xế lái xe nhưng không có công việc và thu nhập không ổn định.
Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 20/7/2023, Phạm Thành T đang điều khiển xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA VIOS màu trắng, biển kiểm soát 51F-268xx, trên xe có chở Mã Thanh T2 lưu thông trên Quốc lộ N theo hướng từ Cần Thơ về Sóc Trăng. Khi đi đến đoạn đường thuộc ấp P, xã S, huyện L, tỉnh Sóc Trăng thì bị lực lượng Công an thuộc Phòng Cảnh sát Kinh tế-Công an tỉnh Sóc Trăng kết hợp với Phòng Cảnh sát giao thông-Công an tỉnh Sóc Trăng và Công an huyện Long Phú phát hiện. Nghi vấn trên xe ô tô có hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Lúc này, T và T2 tự mở cửa xe và bỏ chạy, T2 chạy thoát còn T bị bắt. Tiến hành kiểm tra xe ô tô 51F-268xx, lực lượng Công an phát hiện: tại vị trí hàng ghế sau của xe có 05 bao ny lon, bên trong có chứa 500 bao thuốc lá nhãn hiệu HERO và 2.000 bao thuốc lá nhãn hiệu JET; tại vị trí cốp sau xe có 07 bao nylon bên trong có chứa 1.500 bao thuốc lá nhãn hiệu HERO và 1.000 báo thuốc lá nhãn hiệu JET nên tiến hành lập biên bản tạm giữ phương tiện, đồ vật, tài liệu có liên quan.
Quá trình điều tra Phạm Thành T khai nhận: Vào sáng ngày 20/7/2023, T đến gặp Trần Văn K bạn cùng xóm của T rồi mượn xe ô tô biển số 62A-129xx của K để đi rước con của T gửi ở quê thì được K đồng ý. Sau khi đi rước con xong T chưa đem xe trả cho K mà chạy về đậu xe tại nhà T. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, T nhận được cuộc gọi từ người đàn ông tên Tửng (không rõ nhân thân, lai lịch) kêu T đi giao thuốc lá điếu nhập lậu từ Long An về tỉnh Sóc Trăng và hẹn đến khu vực cầu vượt số 4 thuộc huyện T, tỉnh Long An để nhận thuốc lá điếu nhập lậu. Do đang cần tiền tiêu xài, thấy đang có sẵn xe ô tô của K nên T đồng ý rồi lái xe ô tô đến địa điểm trên. Khi đến nơi, T gặp ông TU và một chiếc xe có chở thuốc lá (không nhớ rõ đặc điểm, biển số của xe này). Lúc này, ông TU mang thuốc lá (đã được để trong các bao nylon màu đen) để vào trong cốp xe và hàng ghế sau xe ô tô biển kiểm soát 62A-129xx rồi đưa cho T biển số xe 51G-268xx (trước và sau) nói khi nào đến địa phận của tỉnh Sóc Trăng thì gắn đè lên biển số xe 62A-129xx để tránh bị phát hiện. Sau khi nhận thuốc lá điếu nhập lậu, T điện thoại rủ Mã Thanh T2 là bạn cùng xóm với T để cùng đi về Sóc Trăng, do đang buồn chuyện gia đình nên T2 đồng ý. Sau đó, T đến nhà để chở T và cùng đi từ Long An về Sóc Trăng. Trên đường đi T không nói cho T2 biết việc T chở thuốc lá điếu nhập lậu. Khi xe qua đến địa phận thành phố Cần Thơ về Sóc Trăng thì T dừng xe lại đi vệ sinh và cùng T2 lấy biển số xe ô tô 51G-268xx do ông TU đưa trước đó để lắp đè lên biển số xe 62A-129xx. Sau đó, T và T2 lên xe để T điều khiển xe về tỉnh Sóc Trăng. Khi đi đến đoạn đường thuộc ấp P, xã S, huyện L thì bị lực lượng Công an phát hiệt bắt quả tang Tại Cáo trạng số 12/CT-VKSLP ngày 04/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú đã truy tố bị cáo Phạm Thành T về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b Khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố:
Bị cáo Phạm Thành T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.
Áp dụng điểm b Khoản 3 Điều 191; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo, đề nghị xử phạt bị cáo từ 05 năm đến 06 năm tù.
Về xử lý vật chứng: áp dụng Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Tịch thu tiêu hủy: 12 bao nylon màu đen, bị rách; 2000 bao thuốc lá nhãn hiệu HERO; 3.000 bao thuốc lá nhãn hiệu JET.
Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu xanh đen, màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng, không khởi động được Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo thống nhất với nội dung Cáo trạng, tội danh và các tình tiết giảm nhẹ mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị đối với bị cáo. Ngoài ra, do bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đã ăn năn hối cải, bị cáo lần đầu phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp, do bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên đề nghị miễn án phí cho bị cáo.
Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội. Bị cáo trình bày lời nói sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và đề nghị xin miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo do bị cáo thuộc hộ cận nghèo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Võ Văn T và những người làm chứng là ông Mã Thanh T2 và ông Trần Văn H. Xét thấy, trong quá trình Điều tra thì những người nêu trên đã có lời khai rõ ràng về các tình tiết của vụ án và việc vắng mặt cũng không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ vào Điều 292, Điều 293 và Điều 299 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, để xét xử vắng mặt đối với những người nêu trên.
[3]. Xét lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo và người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, cũng như phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:
Do bị cáo muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên khi người đàn ông tên TU thuê bị cáo vận chuyển thuốc lá điếu ngoại nhập lậu từ Long An về Sóc Trăng với tiền công là 1.200.000 đồng thì bị cáo đồng ý. Đến khoảng 21 giờ 30 phút ngày 20/7/2023, bị cáo điều khiển xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA VIOS màu trắng, biển kiểm soát 62A-129xx, đến khu vực cầu vượt số 4 thuộc huyện T, tỉnh Long An để nhận thuốc lá điếu nhập lậu vận chuyển về Sóc Trăng, tổng cộng là 5.000 bao thuốc lá điếu (trong đó: 2000 bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, 3.000 bao thuốc lá nhãn hiệu JET). Trên đường đi bị cáo đã gắn biển kiểm soát 51F-268xx đè lên biển kiểm soát 62A-129xx nhằm tránh sự phát hiện, khi đi đến đoạn đường thuộc ấp P, xã S, huyện L thì bị phát hiện bắt quả tang.
Hành vi của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế và chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cấm mà cụ thể là thuốc lá điếu ngoại nhập lậu không được phép lưu thông trên thị trường, hơn nữa hành vi của bị cáo còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.
Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Phạm Thành T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b Khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận và cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là phù hợp.
[4]. Tuy nhiên, khi lượng hình và quyết định mức hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ cho bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng, Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét về nhân thân, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo có cha ruột và người thân là người có công với nước. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[5]. Về xử lý vật chứng của vụ án:
Đối với 12 bao nylon màu đen, bị rách; 2000 bao thuốc lá nhãn hiệu HERO; 3.000 bao thuốc lá nhãn hiệu JET là công cụ dùng cất giấu hàng cấm và là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO là của bị cáo làm phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước.
[6]. Đối với Mã Thanh T2, mặc dù vào ngày 20/7/2023, T2 có đi cùng T trên xe ô tô biển số 62A-129xx và khi bị lực lượng chức năng kiểm tra thì Tú mở cửa xe bỏ chạy và chạy thoát được. Tuy nhiên, T2 chỉ đi cùng bị can T xuống Sóc Trăng chơi, có hỗ trợ bị can T thay biển số xe nhưng không biết việc bị can T sử dụng xe ô tô biển số 62A-129xx để vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu. Do đó, không có căn cứ xử lý đối với Mã Thanh T2 với vai trò đồng phạm giúp sức.
Đối với người đàn ông tên TU, do không có đặc điểm nhận dạng, thông tin cụ thể về họ tên, địa chỉ nên không có cơ sở xác định nhân thân của người này. Do đó, không có căn cứ để xác minh, điều tra làm rõ và xử lý đối với hành vi của ông TU.
[7]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Do bị cáo thuộc hộ cận nghèo và có yêu cầu miễn án phí nên được miễn án phí sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[8]. Xét lời đề nghị Kiểm sát viên và người bào chữa về tội danh và việc áp dụng pháp luật là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b Khoản 3 Điều 191; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Khoản 1 Điều 38; Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Căn cứ vào điểm a Khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 135; Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Căn cứ điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuy ên bố : Bị cáo Phạm Thành T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.
1. Xử phạt bị cáo Phạm Thành T 05 (năm) năm tù.Thời hạn từ tính từ ngày 20/7/2023.
2. Về xử lý vật chứng của vụ án: Theo Phiếu Nhập kho số NK0019 ngày 04/3/2024 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện L, tỉnh Sóc Trăng, cụ thể như sau:
Tịch thu tiêu hủy: 12 bao nylon màu đen, bị rách; 2000 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO; 3.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu FET.
Tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu xanh đen, màn hình cảm ứng, đã qua sử dụng, không khởi động được.
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo được miễn án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được cấp, tống đạt hợp lệ theo quy định pháp luật. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Bản án 11/2024/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 11/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về