TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 11/2024/HS-ST NGÀY 09/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 09 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2024/TLST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2024/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo: Họ và tên: Cao Văn Q, sinh ngày 26/6/1998;
Tại huyện A, tỉnh Kiên Giang;
Nơi cư trú: Ấp B, xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang;
Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá 6/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Cao Văn K, sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1977. Có vợ Trần Thị Quỳnh Nh, sinh năm 1990; có 01 người con sinh năm 2023; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 15/12/2023 cho đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Cao Văn K, sinh năm 1975 (có mặt).
Trú tại: Ấp B, xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 22 giờ ngày 14/12/2023 Cao Văn Q điều khiển xe biển kiểm soát 68U5-5xxx (xe của Cao Văn K) chạy từ nhà của bị cáo thuộc Ấp B, xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang đến khu vực thuộc ấp 6 Đ, xã N, huyện A để mua ma túy. Khi đi Q điện thoại cho một thanh niên tên Tú (không nhớ số điện thoại) ở ấp 6 Đ, xã N để mua ma túy với số tiền 1.500.000 đồng. Khi Q đi đến khu vực thuộc ấp 5 B, xã N thì gặp một thanh niên tên thường gọi là Ba Gà (không rõ địa chỉ), Ba Gà gặp Q để nhận số tiền mua túy là 1.500.000 đồng, sau đó chỉ xuống đất gần chỗ ba Gà đứng có 02 bịch nylon bên trong có chứa ma túy cho Q lấy. Khi đã kiểm tra 02 bịch nylon xong Q cất giấu vào hộc đựng đồ trên xe của Q và điều khiển xe đi về nhà. Đến khoảng 01 giờ ngày 15/12/2023 trên đường về nhà thì bị lực lượng công an dừng xe kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ 02 bịch nylon bên trong có chứa các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất nghi là chất ma túy mà Q vừa mua được nên tiến hành lập biên bản, niêm phong vật chứng theo quy định.
Vật chứng của vụ án gồm: 02 bịch nylon được hàn kín có cùng kích thước 04cm x4,5cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất nghi là chất ma túy; 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, màn hình cảm ứng, bị nứt đã qua sử dụng; 01 xe mô tô biển kiểm soát 68U5-5xxx, nhãn hiệu Yamaha, số loại Nouvo, màu đỏ đen xám, số máy 5P11-103758, số khung RLCN5P1109Y103757 đã qua sử dụng.
* Tại Kết luận giám định số 1302/KL-KTHS ngày 20/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: Các hạt tinh thể trong suốt, không đồng nhất chứa trong 02 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 4,9440 gam.
Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKSHAB ngày 20/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Cao Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Cao Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên xử bị cáo Cao Văn Q từ 12 (Mười hai) tháng đến 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.
- Về biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, bên ngoài ghi: Niêm phong mẫu vật, vụ số 1302/2023 ngày 21/12/2023; giám định viên Lê Đức Huy; người chứng kiến Nguyễn Viết Cường.
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đên, màn hình cảm ứng, bị rạn nứt đã qua sử dụng;
Trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 68U5-5xxx, nhãn hiệu Yamaha, số loại Nouvo, màu đỏ đen xám, số máy 5P11-103758, số khung RLCN5P1109Y103757 đã qua sử dụng cho chủ sở hữu là Cao Văn K do chủ ở hữu không có lỗi.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận.
Người có quyền lời, nghĩa vụ liên quan ông Cao Văn K trình bày: Ông xin nhận lại xe mà bị cáo dùng làm phương tiện để mua ma tuý vì ông không biết.
Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi thực hiện tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa thể hiện: Do muốn có ma túy để sử dụng nên khoảng 22 giờ ngày 14/12/2023 Cao Văn Q điện thoại cho một thanh niên tên Tú (không nhớ số điện thoại) ở ấp 6 Đ, xã N để mua ma túy với số tiền 1.500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy Q điều khiển xe đi về nhà, đến khoảng 01 giờ ngày 15/12/2023 trên đường về nhà thì bị lực lượng Công an dừng xe kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ 02 bịch nylon bên trong có chứa các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất nghi là chất ma túy mà Q vừa mua được nên tiến hành lập biên bản, niêm phong vật chứng theo quy định. Theo Kết luận giám định là chất ma túy loại Methamphetamine, có tổng khối lượng là 4,9440 gam. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên truy tố bị cáo Cao Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có năng lực hành vi, ý thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất về ma túy. Nhưng vì muốn thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý thực hiện tội phạm mà không suy nghĩ đến hậu quả, mua ma túy về tàng trữ để sử dụng. Bị cáo biết rõ tác hại của việc sử dụng trái phép sẽ gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội, gây ảnh hưởng sức khỏe và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật khác, làm mất an ninh trật tự xã hội, gây bất bình trong nhân dân. Do đó, cần xét xử bị cáo một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội. Đồng thời, qua xét xử nhằm tuyên truyền tác hại ma túy, ngăn ngừa chung loại tội phạm này trong xã hội. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội để tuyên xử mức án phù hợp.
Quá trình điều tra đã áp dụng các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ tuy nhiên chưa đủ chứng cứ chứng minh hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” của đối tượng Trần Hoàng Tú. Do đó sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, khi nào đủ cơ sở sẽ xử lý sau. Đối với đối tượng tên gọi Ba Gà chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Do đó sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, khi nào đủ cơ sở sẽ xử lý sau.
[3] Xét về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn khai báo, tỏ ra biết ăn năn hối cải. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo.
[4] Về biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, bên ngoài ghi: Niêm phong mẫu vật, vụ số 1302/2023 ngày 21/12/2023; giám định viên Lê Đức Huy; người chứng kiến Nguyễn Viết Cường;
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đên, màn hình cảm ứng, bị rạn nứt đã qua sử dụng;
Trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 68U5-5xxx, nhãn hiệu Yamaha, số loại Nouvo, màu đỏ đen xám, số máy 5P11-103758, số khung RLCN5P1109Y103757 đã qua sử dụng cho chủ sở hữu là Cao Văn K.
[5] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Cao Văn Q phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Cao Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Cao Văn Q, 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 15/12/2023.
2. Về biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, bên ngoài ghi: Niêm phong mẫu vật, vụ số 1302/2023 ngày 21/12/2023; giám định viên Lê Đức Huy; người chứng kiến Nguyễn Viết Cường;
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đên, màn hình cảm ứng, bị rạn nứt đã qua sử dụng;
Trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 68U5-5xxx, nhãn hiệu Yamaha, số loại Nouvo, màu đỏ đen xám, số máy 5P11-103758, số khung RLCN5P1109Y103757 đã qua sử dụng cho chủ sở hữu là Cao Văn K.
(Theo quyết định chuyển vật chứng số 02/QĐCGVC-VKS ngày 20/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Cao Văn Q phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thi người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 11/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 11/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về