TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 11/2024/HS-ST NGÀY 19/03/2024 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 19 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2024/TLST - HS ngày 27/02/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2024/QĐXXST - HS ngày 07/3/2024 đối với các bị cáo:
1. Phạm Tuấn A, sinh ngày 20/11/2006, tại Hà Nội; ĐKHKTT: Thôn V, xã V, huyện M, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn L (đã chết) và bà Phạm Thị Y; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 14/11/2023 đến ngày 23/11/2023. Có mặt.
2. Dương Chí H, sinh ngày 07/02/2005, tại Hòa Bình; ĐKHKTT: Thôn V, xã V, huyện M, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Mạnh H1 và bà Nguyễn Thu H2; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/11/2023. Có mặt.
3. Lê Văn L1, sinh ngày 21/4/2005, tại Hà Nội; ĐKHKTT: Thôn K, xã V, huyện M, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Sinh viên; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn M và bà Đỗ Thị T; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/11/2023 đến ngày 31/01/2024. Có mặt.
4. Lã Huy Q, sinh năm 2002, tại Hà Nội; ĐKHKTT: Thôn T, xã L, huyện Ứ, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lã Văn L2 (đã chết) và bà Bùi Thị N; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/11/2023. Có mặt.
5. Nguyễn Văn N1, sinh năm 2002, tại Hà Nội; ĐKHKTT: Thôn T, xã L, huyện ứ, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N2 và bà Nguyễn Thị L3; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/11/2023. Có mặt.
6. Nguyễn Đức A1, sinh ngày 13/6/2007, tại Hà Nội; ĐKHKTT: Thôn Y, xã H, huyện M, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B và bà Trịnh Thị H3; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 14/11/2023 đến ngày 23/11/2023. Có mặt.
7. Vương An T1, sinh ngày 08/10/2007, tại Hà Nội; ĐKHKTT: Thôn Đ, xã H, huyện M, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Học sinh; trình độ văn hóa: Đang học lớp 11; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vương Văn T2 và bà Nguyễn Thị H4; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 14/11/2023 đến ngày 23/11/2023. Có mặt.
- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Phạm Tuấn A: Bà Phạm Thị Y, sinh năm 1983 Trú tại: Thôn V, xã V, huyện M, Thành phố H.
- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Đức A1: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1975 và bà Trịnh Thị H3, sinh năm 1983 Trú tại: Thôn Y, xã H, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Vương An T1: Ông Vương Văn T2, sinh năm 1984 và bà Nguyễn Thị H4, sinh năm 1987 Trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Tuấn A: Bà Đinh Thị Mai P - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố H.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức A1, Vương An T1: Ông Nguyễn Ngọc C - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Cháu Đinh Trung H5, sinh ngày 07/7/2008 Trú tại: Thôn V, xã V, huyện M, Thành phố H.
Người đại diện hợp pháp cho cháu Đinh Trung H5: Chị Trịnh Thị BL sinh năm 1989 Trú tại: Thôn V, xã V, huyện M, Thành phố Hà Nội.
Người giám hộ cho cháu Đinh Trung H5: Bà Nguyễn Thị T3, sinh năm 1958.
Trú tại: Thôn V, xã V, huyện M, Thành phố Hà Nội.
2. Anh Phạm Văn M1, sinh năm 1993 Trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện M, Thành phố Hà Nội.
3. Ông Lê Văn M, sinh năm 1974; bà Đỗ Thị T, sinh năm 1982 Đều có trú tại: Thôn K, xã V, huyện M, Thành phố Hà Nội;
Bà Phạm Thị Y, ông Nguyễn Văn B, bà Nguyễn Thị H4, bà Đinh Thị Mai P, ông Nguyễn Ngọc C, ông Lê Văn M, bà Đỗ Thị T, cháu Đinh Trung H5 có mặt. Bà Trịnh Thị H3, ông Vương Văn T2, chị Trịnh Thị B1, bà Nguyễn Thị T3, anh Phạm Văn M1 vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19h ngày 12/11/2023, Dương Chí H hẹn gặp Lê Văn L1, Phạm Tuấn A, Đinh Trung H5, Lã Huy Q và Nguyễn Văn N1, tại khu vực trường Tiểu học xã V để đi tìm đánh một người tên V, trú tại xã H, huyện M (Do Dương Chí H có mâu thuẫn với V từ trước). Khi gặp nhau, Dương Chí H chở Đinh Trung H5 đến khu vực cầu phao xã Đ để lấy dao phóng lợn (là 01 loại tuýp sắt dài khoảng 2m, một đầu có gắn dao nhọn) và quay lại chia cho Phạm Tuấn A và Lã Huy Q, mỗi người cầm 01 cây, Đinh Trung H5 giữ 01 cây. Sau đó Dương Chí H điều khiển xe máy chở Đinh Trung H5; Lê Văn L1 điều khiển xe Honda Wave BKS 29Y1-669.xx của L1 chở Phạm Tuấn A; Nguyễn Văn N1 điều khiển xe Honda Wave BKS 99B1-389xx chở Lã Huy Q. Cả bọn đi từ khu vực trường Tiểu học xã V ra đường T, đi qua khu vực ngã ba Đ rồi đến khu vực xã H. Trên đường đi, các đối tượng đã có hành vi dàn hàng ngang, điều khiển xe với tốc độ cao, lạng lách, đánh võng, liên tục bóp còi, rú ga, cả nhóm đi vòng quanh khu vực xã H nhưng không tìm được người mà Dương Chí H cần đánh nên quay về khu vực đình làng thôn V, xã V, huyện M, Thành phố Hà Nội cất giấu hung khí. Tại đây cả bọn gặp Nguyễn Đức A1 điều khiển xe máy chở theo Vương An T1. Lúc này Nguyễn Đức A1 rủ cả bọn quay lại xã H, huyện M đánh một người có tên là H đang ngồi trong quán ăn ở khu vực cổng đền T4, xã H (do Nguyễn Đức A1 có mâu thuẫn với H). Cả bọn đồng ý, Dương Trung H6 bảo mọi người đi lấy vỏ chai bia về ném, lúc này Lê Văn L1 chở Phạm Tuấn A đến một quán tạp hóa gần UBND xã Đ lấy một két vỏ chai bia. Dương Chí H, Đinh Trung H5, Phạm Tuấn A và Nguyễn Đức A1 mỗi người cầm 02 vỏ chai bia, Lã Huy Q cầm 03 vỏ chai bia. Do xe của Dương Chí H hết xăng nên đã để lại tại khu vực gần trường tiểu học xã V, cả bọn di chuyển bằng 03 xe còn lại; Lê Văn L1 điều khiển xe máy chở Phạm Tuấn A và Đinh Trung H5; T1 chở Dương Chí H và Nguyễn Đức A1; Nguyễn Văn N1 chở Lã Huy Q đi từ xã V đến xã H và ném vỏ chai bia vào quán đang ăn, quán nước ở khu vực cổng đền T4, khiến nhiều người đang ăn, uống tại khu vực này hoảng sợ, bỏ chạy, làm hư hỏng cửa kính nhà anh Phạm Văn M1, sinh năm 1993, trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện M, Thành phố Hà Nội. Sau đó các đối tượng đi về nhà.
Ngày 14/11/2023, Nguyễn Đức A1 đến Công an huyện M đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Ngày 15/11/2023, Nguyễn Văn N1 đến Công an huyện M đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.
* Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ:
- 01 xe máy Honda Wave, BKS: 669.xx, số khung RLHJA3928PY430703, số máy JA39E3046305 - 01 đăng ký xe mô tô, xe gắn máy Honda WaWe, BKS: 669.xx, số khung RLHJA3928PY430703, số máy JA39E3046305 mang tên Lê Văn L1.
* Tại kết luận định giá tài sản số 75/KL-HĐĐGTS ngày 27/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện M kết luận: 01 tấm kính kích thước 2,2m x 1,5m, dày 0,5cm, bị nứt vỡ trên diện 1,15 x 1,7m giá trị 298.000 đồng.
* Tại bản cáo trạng số 06/CT - VKSMĐ ngày 27/02/2024 của VKSND huyện Mỹ Đức đã truy tố Phạm Tuấn A, Dương Chí H, Lê Văn L1, Lã Huy Q, Nguyễn Văn N1, Nguyễn Đức A1, Vương An T1 về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 của BLHS.
Tại phiên toà:
Các bị cáo Phạm Tuấn A, Dương Chí H, Lê Văn L1, Lã Huy Q, Nguyễn Văn N1, Nguyễn Đức A1, Vương An T1 đều khai nhận hành vi phạm tội của mình nhu nội dung bản cáo trạng đã nêu, các bị cáo đều đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.
Người đại diện hợp pháp và người bào chữa của bị cáo Phạm Tuấn A, Nguyễn Đức A1, Vương An T1 đều trình bày: Bị cáo phạm tội lần đầu; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo Nguyễn Đức A1 sau khi phạm tội ra đầu thú; tuổi đời còn rất trẻ, đang ở độ tuổi vị thành niên, bị cáo Vương An T1 lại còn đang đi học, nên đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo với mức án thấp nhất và cho bị cáo được hưởng án treo.
Ông Lê Văn M, bà Đỗ Thị T (bố, mẹ đẻ bị cáo Lê Văn L1) trình bày: Chiếc xe máy Honda Wave, BKS: 669.xx, số khung RLHJA3928PY430703, số máy JA39E3046305 và đăng ký xe mô tô, xe gắn máy Honda Wave, BKS: 669.xx mang tên Lê Văn L1 là của vợ chồng ông M, bà T. Vợ chồng ông M, bà Thu m chiếc xe này đầu năm 2023 và có cho con trai là Lê Văn L1 đứng tên trên chứng nhận đăng ký xe mô tô, gắn máy để thuận tiện cho việc L1 đi học. Thực chất chiếc xe này là của vợ chồng ông M, bà T. Ông M, bà T không biết L1 sử dụng chiếc xe này để đi Gây rối trật tự công cộng. Ồng M, bà T đề nghị Tòa án trả lại chiếc xe này để cho L1 làm phương tiện để đi học tiếp.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của BLHS xử phạt: Dương Chí H từ 30 đến 36 tháng tù; Lã Huy Q từ 24 đến 30 tháng tù; Nguyễn Văn N1 từ 24 đến 30 tháng tù - Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 của BLHS xử phạt: Lê Văn L1 từ 24 đến 30 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 đến 60 tháng.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65; Điều 90; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật hình sự xử phạt: Phạm Tuấn A, Nguyễn Đức A1, Vương An T1 mỗi bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 đến 48 tháng.
Về vật chứng của vụ án: Đề nghị trả lại cho bị cáo Lê Văn L1: 01 xe máy Honda Wave, BKS: 669.xx, số khung RLHJA3928PY430703, số máy JA39E3046305 (kèm theo giấy đăng ký xe máy mang tên Lê Văn L1).
Ngoài ra còn đề nghị buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Lời nói sau cùng: Các bị cáo đều xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất và cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đối với các bị cáo; các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục; không ai có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì.
Về nội dung vụ án: Căn cứ vào không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh, nguyên nhân, diễn biến hành vi; căn cứ lời khai nhận của các bị cáo, sơ đồ hiện trường, biên bản đầu thú, kết luận giám định, biên bản thu giữ vật chứng, cùng các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ, có đủ căn cứ để khẳng định: Tối 12/11/2023 Phạm Tuấn A, Dương Chí H, Lê Văn L1, Lã Huy Q, Nguyễn Văn N1, Nguyễn Đức A1, Vương An T1 có hành vi điều khiển xe máy với tốc độ cao, dàn hàng ngang, lạng lách, đánh võng, liên tục bóp còi, rú ga, cầm dao phóng lợn đi qua các khu vực xã V, xã Đ và xã H huyện M, Thành phố Hà Nội; sau đó các bị cáo đã lấy vỏ chai bia ném vào quán uống nước tại khu vực xã H nơi có đông người, làm vỡ cửa kính của cửa hàng anh Phạm Văn M1, gây thiệt hại về tài sản là 298.000 đồng. Xét thấy, việc VKSND huyện Mỹ Đức truy tố các bị cáo Phạm Tuấn A, Dương Chí H, Lê Văn L1, Lã Huy Q, Nguyễn Văn N1, Nguyễn Đức A1, Vương An T1 về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 của BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, nếp sống văn minh, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động bình thường của mọi người ở những nơi công cộng, gây náo loạn và bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị tại địa phương, nên đòi hỏi phải đưa ra xử lý bằng pháp luật hình sự với những mức hình phạt nghiêm, tương xứng với vai trò và tính chất nguy hiểm trong hành vi phạm tội của từng bị cáo trong vụ án.
Đây là vụ án đồng phạm mang tính giản đơn trong đó:
Dương Chí H là người cầm đầu, khởi xướng việc gây rối trật tự công cộng, chở Đinh Trung H5 đi lấy đồ (Tuýp sắt, trên đầu tuýp sắt có gắn dao), dùng vỏ chai bia ném vào quán chỗ đông người, gây náo loạn trật tự công cộng, nên xếp đều ở vị trí thứ nhất.
Phạm Tuấn A là người bảo Đinh Trung H5 đi lấy đồ (Tuýp sắt, trên đầu tuýp sắt có gắn dao), dùng vỏ chai bia ném vào quán chỗ đông người, gây náo loạn trật tự công cộng, nên xếp đều ở vị trí thứ hai.
Lê Văn L1 là người chở Phạm Tuấn A đi lấy vỏ chai bia. Nguyễn Văn N1 chở Lã Huy Q đi ném vỏ chai bia vào quán chỗ đông người, Lã Huy Q là người trực tiếp cầm dao phóng lợn và là người ném vỡ cửa kính nhà anh Phạm Văn M1, nên đều xếp ở vị trí thứ ba.
Nguyễn Đức A1 là người rủ tất cả các bị cáo quay lại xã H đánh người tên là H7 (H7 là người mâu thuẫn với Nguyễn Đức A1), cầm chai bia ném vào quán chỗ đông người, nên xếp ở vị trí thứ tư.
Vương An T1 là người bị rủ rê, chở Dương Chí H đi ném vỏ chai vào quán chỗ đông người, nên đều xếp ở vị trí thứ năm.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội lần đầu; quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn hối cải; bị cáo Phạm Tuấn A, Nguyễn Đức A1, Vương An T1, khi phạm tội dưới 18 tuổi; gia đình bị cáo Phạm Tuấn A thuộc diện hộ cận nghèo, bị cáo Nguyễn Đức A1, Nguyễn Văn N1 sau khi phạm tội ra đầu thú; gia đình các bị cáo liên đới bồi thường cửa kính bị vỡ cho anh Phạm Văn M1; ông nội bị cáo Vương An T1 là ông Vương Quý H8 có công với cách mạng; bà ngoại, bác bị cáo Lê Văn L1 là Đỗ Thị S, Lê Văn C1, Lê Văn Đ có công với cách mạng là các tình tiết quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90; Điều 91; Điều 101 của BLHS mà giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Đối với các bị cáo Phạm Tuấn A, Nguyễn Đức A1, Vương An T1 khi phạm tội dưới 18 tuổi (vị thành niên), nên được hưởng mức hình phạt 3/4 người đã thành niên phạm tội.
Xét các bị cáo Dương Chí H, Nguyễn Văn N1, Lã Huy Q thực hiện tội phạm tích cực. Bởi vậy cần cách ly các bị cáo này ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục cải tạo bị cáo trở về con đường lương thiện cũng là để làm gương cho người khác.
Xét bị cáo Phạm Tuấn A, Nguyễn Đức A1, Vương An T1 (T1 đang đi học) là người dưới 18 tuổi; Lê Văn L1 vai trò trong vụ án thứ yếu, hơn nữa hiện đang là sinh viên Trường Cao đẳng B3, ước mơ, triển vọng của bản thân cũng như của toàn xã hội còn ở phía trước. Hội đồng xét xử đối chiếu Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo thì các bị cáo Phạm Tuấn A, Nguyễn Đức A1, Vương An T1, Lê Văn L1 đủ điều kiện xem xét được hưởng án treo theo Điều 65 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, có tác dụng giáo dục đồng thời thể hiện sự nhân văn của pháp luật đối với người phạm tội.
Về trách nhiệm dân sự:
Gia đình các bị cáo đã bồi thường cửa kính bị vỡ cho nhà anh Phạm Văn M1. Anh M1 không có yêu cầu hay đề nghị gì khác, nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.
Về vật chứng của vụ án:
Đối với: 01 xe máy Honda Wave, BKS: 669.xx, số khung RLHJA3928PY430703, số máy JA39E3046305; 01 đăng ký xe mô tô, xe gắn máy Honda Wave, BKS: 669.xx, số khung RLHJA3928PY430703, số máy JA39E3046305 mang tên Lê Văn L1. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông Lê Văn M, bà Đỗ Thị T (bố, mẹ đẻ bị cáo Lê Văn L1), bị cáo L1 chỉ là người đứng tên trên trên giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, gắn máy. Ông M, bà T không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe này vào việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo Lê Văn L1.
Đối với 01 xe máy mà Dương Chí H sử dụng để Gây rối trật tự công cộng, quá trình điều tra xác định, xe máy này là của chị Lê Thị H9, sinh năm 1981, trú tại: Thôn K, xã V, huyện M, Thành phố Hà Nội, H đã mượn của Dương Công A2, sinh ngày 28/07/2006 (con trai chị H9), khi cho H mượn, A2 không biết mục đích H dùng xe để đi gây rối trật tự công cộng, nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là phù hợp.
Đối với 01 xe máy mà Nguyễn Văn N1 sử dụng để Gây rối trật tự công cộng, N1 trình bày xe do N1 mua để sử dụng, không nhớ BKS cùng số khung, số máy, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, N1 đã bán chiếc xe trên cho 01 cửa hàng Nam không nhớ địa chỉ, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ thu giữ, truy tìm là phù hợp.
Đối với người tên B2 đã cho Nguyễn Đức A1 mượn xe máy để sử dụng làm phương tiện sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi Gây rối trật tự công cộng, do Nguyễn Đức A1 không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của B2, nên Cơ quan không có căn cứ để xử lý là phù hợp.
Đối với cháu Đinh Trung H5, sinh ngày 07/7/2008, có hành vi gây rối trật tự công cộng. Tuy nhiên tại thời điểm xảy ra sự việc cháu Đinh Trung H5 chưa đủ 16 tuổi, nên không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự. UBND xã V đã Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Ngoài ra buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các bị cáo Phạm Tuấn A, Dương Chí H, Lê Văn L1, Lã Huy Q, Nguyễn Văn N1, Nguyễn Đức A1, Vương An T1 phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của BLHS xử phạt:
Dương Chí Hiếu 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/11/2023.
Lã Huy Quyền 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/11/2023.
Nguyễn Văn N1 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/11/2023.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; Điều 17; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 của BLHS xử phạt: Lê Văn L1 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (Bốn mươi tám) tháng, kể từ ngày tuyên án.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; Điều 17; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65; Điều 90; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật hình sự xử phạt:
Phạm Tuấn A 20 (Hai mươi) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 40 (Bốn mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án.
Nguyễn Đức A1 18 (Mười tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (Ba mươi sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án.
V1 (Mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 (Ba mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án.
Giao các bị cáo Phạm Tuấn A, Lê Văn L1 cho UBND xã V, huyện M, Thành phố Hà Nội kết hợp cùng gia đình giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.
Giao các bị cáo Nguyễn Đức A1, Vương An T1 cho UBND xã H, huyện M, Thành phố Hà Nội kết hợp cùng gia đình giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS; Điều 106 của BLTTHS:
Trả lại cho bị cáo Lê Văn L1: 01 xe máy Honda Wave, BKS: 669.xx, số khung RLHJA3928PY430703, số máy JA39E3046305; 01 đăng ký xe mô tô, xe gắn máy Honda Wave, BKS: 669.xx, số khung RLHJA3928PY430703, số máy JA39E3046305 mang tên Lê Văn L1.
(Tình trạng vật chứng như: Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M và Chỉ cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức ngày 12/3/2024 và có trong hồ sơ vụ án).
Đã trả tại phiên tòa cho bị cáo Lê Văn L1: 01 đăng ký xe mô tô, xe gắn máy Honda Wave, BKS: 669.xx, số khung RLHJA3928PY430703, số máy JA39E3046305 mang tên Lê Văn L1.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Phạm Tuấn A, Dương Chí H, Lê Văn L1, Lã Huy Q, Nguyễn Văn N1, Nguyễn Đức A1, Vương An T1 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người đại diện hợp pháp cho bị cáo vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người đại diện hợp pháp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
Bản án 11/2024/HS-ST về tội gây rối trật tự công cộng
Số hiệu: | 11/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về