Bản án 11/2021/HS-ST ngày 15/06/2021 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG YANG - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 15/6/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2021/HSST ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Khắc Ng (Tên gọi khác: MT) Sinh ngày: 18/11/1992 tại tỉnh Gia Lai Nơi cư trú: Tổ 4, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Khắc L (Sinh năm: 1958) và bà Nguyễn Thị Kim C (Sinh năm: 1969); Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con đầu trong gia đình, bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 05/4/2013, bị Tòa án Nhân dân TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai tuyên phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/10/2020 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

2. Đào Đình Đ (Tên gọi khác: Tèo), sinh ngày 15/3/1994 tại tỉnh Gia Lai.

Nơi cư trú: Tổ 5, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đào Đình P (Sinh năm: 1966) và bà Vũ Thị X (Sinh năm: 1968); Gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Vợ: Hứa Thị H – sinh năm: 2002, bị cáo có một người con sinh năm: 2019.

Tiền sự: 02.

Ngày 17/9/2017 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị Tòa án nhân dân TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đến ngày 17/9/2018 chấp hành xong trở về địa phương. Ngày 18/9/2019, bị Công an huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Đánh nhau và xúi giục người khác đánh nhau”, đến ngày 26/10/2020 bị cáo chưa chấp hành xong hình phạt.

Tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2020 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Văn Th (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 04/4/2000 tại tỉnh Gia Lai.

Nơi cư trú: Tổ 1, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Phi L (Sinh năm: 1968) và bà Nguyễn Thị Y (Sinh năm: 1969); Gia đình bị cáo có 04 anh chị em, bị cáo là con út trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: 01.

Ngày 12/6/2019, bị Tòa án Nhân dân huyện Mang Yang tuyên phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 01/9/2019 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15/01/2021 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Y H – Sinh năm: 2003. Địa chỉ: Làng Br, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt

- Ninh Đan H – Sinh năm: 1999. Địa chỉ: Tổ 6, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai. Vng mặt

- Tô Tấn T – Sinh năm: 2001. Địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện M, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

 Bùi Hữu Ng – Sinh năm: 1986. Địa chỉ: Tổ 4, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

* Người làm chứng: Lương V – Sinh năm 1990.

Địa chỉ: Tổ 2, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

* Người giám hộ cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Y H:

Bà Y Buồn – 1984. Địa chỉ: Làng Br, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đào Đình Đ, Nguyễn Văn Th và Nguyễn Khắc Ng là các đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 15 giờ ngày 25/10/2020, Nguyễn Văn Th đến nhà trọ của Nguyễn Khắc Ng hỏi Ng còn ma túy không để cùng sử dụng. Ng trả lời đã hết và gọi điện thoại cho Đào Đình Đ rủ Đ góp tiền để mua ma túy về cùng sử dụng. Do Đ đang ở trong Ủy ban nhân dân thị trấn K nên không tiện nói, vì thế Đ hẹn lát nữa sẽ đến nhà Ng nói chuyện sau. Khoảng 17 giờ cùng ngày, Đ đến phòng trọ của Ng, tại đây Ng nói còn 700.000 đồng và bảo Đ cầm cố điện thoại lấy tiền thì Đ không đồng ý và bỏ về. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Nguyễn Văn Th nhắn tin rủ Đ góp tiền mua ma túy, nhưng Đ cũng không đồng ý. Đến 21 giờ 30 phút cùng ngày, do buồn phiền chuyện gia đình, Đ nhắn tin rủ Th góp tiền mua ma túy, Đ hỏi Th: “Có tiền không?”, Th nói: “Không có”, Đ hỏi mượn điện thoại (IPHONE 6S Plus) của Th để cầm cố lấy tiền mua ma túy về cùng sử dụng thì Th đồng ý. Sau khi Th đồng ý, Đ gọi cho Ng để hỏi về chuyện góp tiền mua ma túy thì Ng đồng ý. Sau đó, Đ đi đến nhà trọ của Ng, lúc này thấy Th ở nhà của Ng cùng với Y H. Do Ng không có tiền và Y H đang nợ tiền của mình nên Ng mượn điện thoại của Y H để đi cầm cố, nhưng Ng không nói rõ mục đích cho Hằng biết. Vì đang nợ tiền của Ng trước đó và cũng muốn có tiền để về quê vào ngày 27/10/2020, thì Hằng đã đồng ý cho Ng mượn điện thoại để cầm cố. Có điện thoại của Hằng, Ng đưa cho Đ cầm cố lấy tiền góp để mua ma túy. Sau đó, Đ cùng Th đã cầm cố 02 chiếc điện thoại nêu trên tại tiệm điện thoại của anh Bùi Hữu Ng với giá 3.700.000 đồng. Số tiền cầm cố điện thoại được chuyển vào tài khoản của Đ. Cầm cố xong, Th cùng Đ quay lại phòng trọ của Ng để rủ Ng đi mua ma túy, nhưng do mệt nên Ng không đi và nói với Đ đến nhà nghỉ Thúy Hà gặp Ninh Đan H để lấy số tiền là 200.000 đồng do Ng mượn từ trước. Sau đó Đ gọi điện cho một người biệt danh Tý Ia Băng (không rõ nhân thân, lai lịch) để hỏi mua ma túy với giá 3.500.000 đồng, Tý Ia Băng đồng ý và bảo Đ chuyển tiền vào tài khoản 31059555555, chủ tài khoản: NGUYEN XUAN BAC, tài khoản mở tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), và hẹn Đ đến trước số nhà 01, đường Lý Chính Thắng, TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai để lấy ma túy. Đ đồng ý và đã chuyển số tiền 3.500.000 đồng vào tài khoản trên theo yêu cầu của Tý Ia Băng, rồi sau đó cùng Th thuê xe taxi của hãng Mai Linh do anh Lương V điều khiển đi đến TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai để mua ma túy. Khi Đ cùng Th đi xe taxi đến trước số nhà 01, Lý Chính Thắng thì Tý Ia Băng điều khiển xe mô tô đến và đưa cho Đ 01 gói ma túy, Đ cầm ma túy và nói anh Vĩnh quay về Mang Yang. Về đến nhà trọ của Ng thuê ở, Đ đưa ma túy cho Ng để phân chia và cất giữ.

Khi nhận được ma túy, Ng lấy bộ sử dụng ma túy dưới gầm tủ tại phòng khách rồi lấy một phần ma túy bỏ vào trong ống thủy tinh để cùng sử dụng, số ma túy còn lại Ng đi ra phía sau nhà để cất giấu. Cất giấu xong, Ng rủ Y H cùng ra sử dụng ma túy. Sau đó, Ng dùng quẹt lửa hơ nóng ma túy đang bỏ trong ống thủy tinh và cùng Đ, Th, Y H sử dụng. Đến khoảng 00 giờ ngày 26/10/2020, Ng rủ thêm Trịnh Xuân H đang thuê nhà bên cạnh qua sử dụng cùng.

Khong 09 giờ ngày 26/10/2020, Tô Tấn T đến nhà trọ của Ng để mua ma túy, Ng đồng ý và bán cho Tài một bì ma túy với giá 300.000 đồng.

Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, Ninh Đan H đến nhà trọ của Ng để hỏi mua ma túy, Ng đồng ý và bán cho H một bì ma túy với giá 300.000 đồng, trước đó H cho Ng mượn 200.000 đồng nên chỉ đưa thêm 200.000 đồng cho Ng nhưng Ng chưa trả lại tiền thừa 100.000 đồng cho H. Căn cứ lời khai của Nguyễn Khắc Ng, Cơ quan điều tra đã triệu tập Ninh Đan H để làm việc. Tại cơ quan điều tra, H thừa nhận đã có hành vi mua 01 gói nilon ma túy của Ng vào ngày 26/10/2020, sau đó Huy mang về nhà và sử dụng hết. Do vậy, Cơ quan điều tra không thu giữ được số ma túy mà Huy mua của Ng.

Sau khi mua ma túy của Ng, Tô Tấn T cầm ma túy đi về nhà, khi đến đoạn đường thuộc thôn Nhơn Tân, xã Đăk Taley, huyện Mang Yang thì bị lực lượng Công an huyện Mang Yang tiến hành kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ trong người Tài một gói nilon bên trong có chứa tinh thể màu trắng. Qua đấu tranh với Tài đã khai nhận mua số ma túy trên của Nguyễn Khắc Ng trú tại tổ dân phố 1, thị trấn K, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai.

Căn cứ lời khai của Tài, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Yang đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Khắc Ng, qua khám xét thu giữ 02 gói ni lon có chứa tinh thể màu trắng và 02 bộ sử dụng trái phép chất ma túy gồm:

Một chai nhựa được đục 02 lỗ trên nắp, một đầu lỗ gắn ống nhựa, đầu lỗ còn lại gắn ống thủy tinh, đầu ngoài ống thủy tinh phình to có bám dính một số chất, 01 bật lửa được cắt độ chế để phục vụ việc sử dụng chất ma túy.

Một chai nhựa, phần đáy là ly thủy tinh được gắn độ chế, được đục 02 lỗ trên nắp, một đầu lỗ gắn ống nhựa, đầu lỗ còn lại gắn ống thủy tinh, đầu ngoài ống thủy tinh phình to có bám dính một số chất, 01 bật lửa được cắt độ chế để phục vụ việc sử dụng chất ma túy.

01 ví da bên trong có chứa 500.000 đồng, gồm: 02 tờ polime mệnh giá 200.000 đồng; 01 tờ polime mệnh giá 100.000 đồng.

01 điện thoại hiệu ASUS có số IMEI 357886082755035 (kèm sim số). Kiểm tra trên người Đào Đình Đ thu giữ 01 điện thoại hiệu VIVO, màu tím, có số IMEI 1: 863601046839552, số IMEI 2: 863601046839545 (kèm sim số).

Tại bản kết luận giám định số 767 ngày 02/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: Chất màu trắng dạng tinh thể trong 01 (một) gói nilon trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0560 gam.(số ma túy thu giữ được trên người Tô Tấn T) Tại bản kết luận giám định số 768 ngày 02/11/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: Chất màu trắng dạng tinh thể trong 01 (một) gói nilon trong phong bì ghi “01” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,3036 gam.(số ma túy thu giữ được tại nhà trọ của Nguyễn Khắc Ng).

Tại bản Kết luận giám định số 222 ngày 19/3/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận:

1. Chất bám dính trong đoạn ống thủy tinh, trong phong bì công văn ghi “03” niêm phong gửi giám định không đủ yếu tố giám định, do lượng mẫu quá ít.

2. Chất bám dính trong đoạn ống thủy tinh, trong phong bì công văn ghi “04” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, do lượng mẫu ít nên không cân được khối lượng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Yang các bị cáo đã khai nhận nguồn gốc số ma túy trên là do Đào Đình Đ, Nguyễn Văn Th và Nguyễn Khắc Ng cùng góp tiền mua của đối tượng có biệt danh là Tý Ia Băng, việc mua bán được thực hiện trước số nhà 01, đường Lý Chính Thắng, TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai. Mục đích các bị can mua về để sử dụng. Ngoài ra, Nguyễn Khắc Ng khai nhận có hành vi bán ma túy cho Tô Tấn T và Ninh Đan H để kiếm lời, lấy tiền tiêu xài cá nhân; việc mua bán ma túy trên của Ng thì Đ và Th không biết, không liên quan đến việc bán ma túy của Nguyễn Khắc Ng, Ng cũng không có bàn bạc với Đ và Th.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 bịch nilon có kích thước (3x1)cm bên trong có chứa nhiều tinh thể màu trắng (thu giữ của Tô Tấn T);

- 01 bịch nilon bên trong có chứa nhiều tinh thể màu trắng (Nguyễn Khắc Ng giao nộp trong quá trình khám xét);

- 01 bịch nilon bên trong có một số hạt tinh thể màu trắng (thu giữ tại nhà trọ của Nguyễn Khắc Ng);

- 01 (một) ví da màu đen bên trong có chứa 500.000 đồng, gồm: 01 tờ polime mệnh giá 200.000đ có số seri: TM13937495; 01 tờ polime mệnh giá 200.000đ có số seri: KU11990935; 01 tờ polime mệnh giá 100.000đ có số seri: HT05253333. (thu giữ tại nhà trọ của Ng):

- 01 (một) điện thoại di dộng hiệu ASUS kèm sim số (thu giữ tại nhà trọ của Nguyễn Khắc Ng);

- 01 (một) điện thoại di động hiệu VIVO kèm sim số (thu giữ trên người của Đào Đình Đ);

- 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE 6 Plus, màu xám, đã cũ, có số IMEI: 358353069920404 (thu giữ tại tiệm điện thoại của anh Bùi Hữu Ng, quá trình điều tra xác định điện thoại này là của Y H);

- 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE 6S plus, màu vàng, đã cũ, có số IMEI: 355733077034004 (thu giữ tại tiệm điện thoại của anh Bùi Hữu Ng, quá trình điều tra xác định điện thoại này là của Nguyễn Văn Th);

- 01 bộ sử dụng chất ma túy gồm 01 chai nhựa đục 02 lỗ trên nắp, một đầu lỗ gắn ống nhựa, đầu còn lại gắn ống thủy tinh, ngoài đầu ống phình to, bám dính một số chất, 01 bật lửa được cắt độ chế để phục vụ việc sử dụng chất ma túy (thu giữ tại nhà trọ của Nguyễn Khắc Ng);

- 01 bộ sử dụng chất ma túy gồm 01 chai nhựa, phần đáy là ly thủy tinh được gắn độ chế, đục 02 lỗ trên nắp, một đầu lỗ gắn ống nhựa, đầu còn lại gắn ống thủy tinh, ngoài đầu ống phình to, bám dính một số chất (thu giữ tại nhà trọ của Nguyễn Khắc Ng).

Về phần bồi thường dân sự: Đối với số tiền 3.700.000 đồng mà các bị cáo cầm cố điện thoại tại tiệm điện thoại Hữu Ng vào tối ngày 25/10/2020, gia đình các bị cáo và anh Bùi Hữu Ng đã tự thỏa thuận với nhau, Đ diện gia đình các bị can đã bồi thường cho anh Ng số tiền 3.000.000 đồng, anh Bùi Hữu Ng đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu gì thêm về phần bồi thường dân sự Tại Cáo trạng số: 12/CT-VKS, ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo Nguyễn Khắc Ng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Truy tố các bị cáo Đào Đình Đ và Nguyễn Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Khắc Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc Ng từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù - về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; từ 07 năm đến 08 năm tù - về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự đề nghị Tòa án tổng hợp hình phạt của hai tội danh đối với Nguyễn Khắc Ng. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 26/10/2020.

+ Áp dụng khoản 5 Điều 249, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự đề nghị HĐXX xử phạt hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Khắc Ng từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Đào Đình Đ từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 27/10/2020.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam 15/01/2021.

+ Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đề nghị HĐXX xử phạt hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Đào Đình Đ, Nguyễn Văn Th mỗi bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 BLTTHS đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với:

- Số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong cụ thể:

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước ghi “(01)”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Võ Đình Tài và Bùi Sĩ Thà.

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước ghi “(02)”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Võ Đình Tài và Bùi Sĩ Thà.

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước ghi “Số 767/PC09, ngày 03/11/2020”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Võ Đình Tài và Nguyễn Minh Tâm.

- 01 (một) ví da màu đen thu giữ tại nhà trọ của Nguyễn Khắc Ng.

- 02 bộ sử dụng chất ma túy được niêm phong sau giám định gồm:

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước có dòng chữ “Số 222/PC09, ngày 19/3/2021” và ghi số “(03)”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Nguyễn Đức Huy và Bùi Sĩ Thà.

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước có dòng chữ “Số 222/PC09, ngày 19/3/2021” và ghi số “(04)”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Nguyễn Đức Huy và Bùi Sĩ Thà.

* Căn cứ khoản 2 Điều 106 BLTTHS đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước:

Đối với số tiền 500.000 đồng có được do bán ma túy; 01 (một) điện thoại di động hiệu ASUS kèm sim số (của Nguyễn Khắc Ng); 01 (một) điện thoại di động hiệu VIVO kèm sim số (của Đào Đình Đ); 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE 6S plus, màu vàng, đã cũ, có số IMEI: 355733077034004 (của Nguyễn Văn Th) * Căn cứ khoản 3 Điều 106 BLTTHS đề nghị HĐXX trả lại cho Y H 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE 6 Plus, màu xám, đã cũ, có số IMEI:358353069920404.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng là đúng. Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội sửa chữa lỗi lầm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mang Yang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Yang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và các đương sự khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh của bị cáo: Xét tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo là phù hợp với các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, vì vậy có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 25/10/2020 Đào Đình Đ, Nguyễn Văn Th và Nguyễn Khắc Ng đã cùng nhau cầm cố 02 điện thoại di động với giá 3.700.000 đồng để góp tiền mua ma túy, sau đó Đ và Th thuê taxi của hãng Mai Linh đi đến thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai để mua ma túy. Đ đã chuyển khoản số tiền 3.500.000 đồng cho đối tượng có biệt danh là Tý Ia Băng vào số tài khoản 31059555555 mang tên: Nguyễn Xuân Bắc để mua ma túy, khi đến trước số nhà 01 Lý Chính Thắng, TP.Pleiku, tỉnh Gia Lai thì Tý Ia Băng đã đưa cho Đ và Th 01 gói ma túy. Sau khi mua ma túy xong, Đ và Th quay về nhà trọ của Nguyễn Khắc Ng tại tổ 1, thị trấn K và đưa số ma túy mua được cho Ng, tại đây Ng đã lấy một phần ma túy ra để sử dụng, số ma túy còn lại Ng cất giữ. Lúc 12 giờ 15 phút ngày 26/10/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Yang đã khám xét nhà trọ của Ng thu giữ được 02 gói nilon bên trong có chứa ma túy (loại Methamphetamine, tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,3036 gam). Sau khi cất giấu số ma túy Nguyễn Khắc Ng đã nảy sinh ý định bán ma túy cho các con nghiện để kiếm tiền tiêu xài cá nhân nên sáng ngày 26/10/2020 Nguyễn Khắc Ng đã 02 lần thực hiện hành vi mua bán ma túy, cụ thể Ng bán cho Tô Tấn T 01 tép ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0560 gam với giá 300.000 đồng và Ninh Đan H 01 tép ma túy cùng loại như trên với giá 300.000 đồng. Hành vi bán ma túy cho Tô Tấn T và Ninh Đan H do Nguyễn Khắc Ng thực hiện độc lập, không có sự bàn bạc hay thống nhất với Đ và Th. Như vậy có đủ cơ sở kết luận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện mang Yang, tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo Nguyễn Khắc Ng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Truy tố các bị cáo Đào Đình Đ và Nguyễn Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo: Các bị cáo là người thành niên và hoàn toàn nhận thức được các chất ma túy là cực kỳ nguy hại đối với sức khỏe con người, là chất gây nghiện đã bị nhà nước nghiêm cấm tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép, nhưng vẫn bất chấp các quy định của pháp luật vẫn cố ý tàng trữ để sử dụng và mua bán. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quy định của Nhà nước về quản lý chất ma túy, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, gây ra nhiều hiểm họa cho cộng đồng và làm gia tăng các tệ nạn xã hội. Các bị cáo đồng phạm tội nhưng với tính chất giản đơn, không có tổ chức chặc chẽ, các bị cáo cùng nhau thống nhất góp tiền để mua ma túy về sử dụng, riêng bị cáo Ng đã 02 lần bán ma túy để kiếm tiền tiêu xài cá nhân nên phải chịu thêm trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 251 của Bộ luật hình sự.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Nguyễn Khắc Ng có nhân thân xấu, Ngày 05/4/2013, bị Tòa án Nhân dân TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai tuyên phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Hiện bị cáo đã được xóa án tích.

Bị cáo Đào Đình Đ có nhân thân xấu, có 02 tiền sự. Ngày 17/9/2017 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị Tòa án nhân dân TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đến ngày 17/9/2018 chấp hành xong trở về địa phương (Chưa được xóa tiền sự). Ngày 18/9/2019, bị Công an huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Đánh nhau và xúi giục người khác đánh nhau”, bị cáo chưa chấp hành xong hình phạt.

Bị cáo Nguyễn Văn Th có nhân thân xấu, có 01 tiền án. Ngày 12/6/2019, bị Tòa án Nhân dân huyện Mang Yang tuyên phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 01/9/2019 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phươn. Hiện bị cáo chưa được xóa án tích nhưng phạm tội mới với lỗi cố ý. Do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

nh tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Ngoài ra, quá trình điều tra Nguyễn Văn Th đã ra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Xét đề nghị của Kiểm sát viên về áp dụng hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật. Các bị cáo có nhân thân xấu, từng bị xử phạt tù và bị xử phạt hành chính nhưng vẫn tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý, điều đó cho thấy ý thức coi thường pháp luật của các bị cáo. Do vậy cần xử phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có đủ tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục đối với các bị cáo. Đối với bị cáo Đ là người rủ rê, khởi xướng các bị cáo còn lại thực hiện hành vi mua ma túy về để sử dụng và bị cáo còn tham gia một cách tích cực, do vậy bị cáo phải chịu mức án cao hơn 02 bị cáo còn lại. Đối với vai trò của bị cáo Nguyễn Khắc Ng trong vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy này là tương đương với bị cáo Nguyễn Văn Th nên cần phải chịu hình phạt tù và mức án tương đương với bị cáo Th. Bị cáo Ng còn phải chịu hình phạt đối với hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Bị cáo Ng phải chịu hình phạt chung của hai tội theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước ghi “(01)”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Võ Đình Tài và Bùi Sĩ Thà.

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước ghi “(02)”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Võ Đình Tài và Bùi Sĩ Thà.

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước ghi “Số 767/PC09, ngày 03/11/2020”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Võ Đình Tài và Nguyễn Minh Tâm.

+ 01 (một) ví da màu đen thu giữ tại nhà trọ của Nguyễn Khắc Ng.

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước có dòng chữ “Số 222/PC09, ngày 19/3/2021” và ghi số “(03)”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Nguyễn Đức Huy và Bùi Sĩ Thà.

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước có dòng chữ “Số 222/PC09, ngày 19/3/2021” và ghi số “(04)”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Nguyễn Đức Huy và Bùi Sĩ Thà.

Xét các vật chứng là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị nên cần tịch tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự - Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE 6S plus, màu vàng, đã cũ, có số IMEI: 355733077034004; 01 (một) điện thoại di dộng hiệu ASUS kèm sim số và 01 (một) điện thoại di động hiệu VIVO kèm sim số, đây là phương tiện các bị cáo dùng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với số tiền 500.000 đồng, gồm 01 tờ polime mệnh giá 200.000đ có số seri: TM13937495; 01 tờ polime mệnh giá 200.000đ có số seri: KU11990935; 01 tờ polime mệnh giá 100.000đ có số seri: HT05253333 đây là số tiền mà bị cáo Ng bán ma túy cho Ngô Tấn T và Ninh Đan H mà có nên tịch thu sung ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE 6 Plus, màu xám, đã cũ, có số IMEI: 358353069920404 là tài sản của chị Y H nên trả lại cho chị Y H theo theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của bộ luật tố tụng hình sự và khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự.

[7] Về phần dân sự: Đối với số tiền 3.700.000 đồng mà các bị can cầm cố điện thoại tại tiệm điện thoại Hữu Ng vào tối ngày 25/10/2020, gia đình các bị cáo và anh Bùi Hữu Ng đã tự thỏa thuận với nhau, Đ diện gia đình các bị caó đã bồi thường cho anh Ng số tiền 3.000.000 đồng, anh Bùi Hữu Ng đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu gì thêm về phần bồi thường dân sự do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết Đối với Tý Ia Băng: là người đàn ông bán ma túy cho Đ và Th tại thành phố Pleiku, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Yang đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch của đối tượng này, đồng thời đã có công văn thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku để phối hợp điều tra xử lý theo thẩm quyền. Vì vậy, khi nào có đủ căn cứ sẽ tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với Nguyễn Xuân Bắc: Là người chủ tài khoản ngân hàng số 31059555555 mà Đ chuyển tiền mua ma túy, do đối tượng đã bỏ đi khỏi địa phương, chưa làm việc được. Đào Đình Đ cũng không biết người này là ai, có liên quan gì đến việc mua, bán ma túy, việc chuyển tiền vào tài khoản trên theo đề nghị của Tý Ia Băng. Do vậy Cơ quan điều tra chưa có căn cứ để xử lý, sẽ tiếp tục củng cố chứng cứ để xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Đối với Y H: Là người ở chung nhà trọ của Ng chỉ để đi làm thuê không có sử dụng ma túy. Vào đêm ngày 25/10/2020 đang ở trong phòng khi nghe Nguyễn Khắc Ng hỏi mượn điện thoại để đi cầm cố, Ng không nói rõ cầm cố lấy tiền để làm gì; Y H cũng không hỏi mục đích cầm cố điện thoại, hơn nữa ngày 27/10/2020 sẽ trở về nhà tại huyện Đak Glei, tỉnh Kon Tum mà bản thân cũng không có tiền và đang nợ tiền của Ng nên khi Ng hỏi mượn cầm cố điện thoại thì Y H đồng ý đưa cho Ng nhưng không biết Ng cầm cố điện thoại lấy tiền nhằm mục đích gì, cũng như việc Ng, Đ, Th mua ma túy về sử dụng chung thì Y H hoàn toàn không biết. Do đó, hành vi của Y H không cấu thành tội phạm.

Đối với việc Ng rủ cùng tham gia sử dụng ma túy và Y H đã cùng tham gia sử dụng trái phép chất ma túy với Đào Đình Đ, Nguyễn Khắc Ng, Nguyễn Văn Th thì không xử lý hình sự mà phải xử lý hành chính. Tính đến ngày 25/10/2020 khi Y H sử dụng ma túy thì Hằng được 17 tuổi 09 tháng 22 ngày. Công an huyện Mang Yang đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1623 ngày 26/3/2021 xử phạt vi phạm hành chính đối với Y H bằng hình thức phạt tiền, số tiền là 375.000 đồng.

Đối với Trịnh Xuân Hải: Đang ngủ tại nhà thuê trọ sát cạnh nhà trọ của Ng, vì mới quen biết, khi nghe Nguyễn Khắc Ng gọi rủ qua nhà chơi, Hải dậy đi qua nhà Ng, sau đó được Ng rủ sử dụng ma túy thì Hải đã sử dụng ma túy cùng Đào Đình Đ, Nguyễn Văn Th, Nguyễn Khắc Ng và Y H. Hành vi của Hải tuy chưa đến mức xử lý hình sự nhưng cần Th phải xử lý hành chính để răn đe do đó Công an huyện Mang Yang đề nghị Tòa án nhân dân huyện Mang Yang áp dụng biện pháp xử lý hành chính bằng hình thức cai nghiện bắt buộc. Tòa án nhân dân huyện Mang Yang đã ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 01/QĐ-TA ngày 21/01/2021 đối với Hải. Hiện Hải đang cai nghiện tại Trung tâm tư vấn và cai nghiện ma túy tỉnh Gia Lai.

Đối với Tô Tấn T: Vào ngày 26/10/2020 đến phòng trọ của Nguyễn Khắc Ng mua ma túy đem về sử dụng. Trên đường mua ma túy về thì bị lực lượng Công an phát hiện thu giữ trong người 0,056 gam ma túy loại methamphetamine. Trọng lượng ma túy của Tài chưa đủ định lượng để xử lý hình sự về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xét nhân thân của Tài chưa có tiền án, tiền sự liên quan đến ma túy. Mặc dù không xử lý hình sự nhưng cần Th phải xử lý hành chính để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung. Công an huyện Mang Yang đã ra Quyết định xử phạt hành chính số 1634 ngày 26/3/2021 đối với Tô Tấn T bằng hình thức phạt tiền, số tiền là: 1.500.000 đồng.

Đối với Ninh Đan H: Ngày 26/10/2020, Huy đến phòng trọ của Nguyễn Khắc Ng mua ma túy đem về sau đó đã trực tiếp sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà của mình. Hành vi của Huy không xử lý hình sự nhưng cần Th phải xử lý hành chính để răn đe. Công an huyện Mang Yang đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1635 ngày 26/3/2021 đối với Ninh Đan H bằng hình thức phạt tiền, số tiền là: 750.000 đồng.

Đối với Lương Vĩnh: Khi được Đào Đình Đ, Nguyễn Văn Th thuê chở đi TP. Pleiku, thì Vĩnh điều khiển xe ô tô taxi của mình để chở đi TP. Pleiku, còn mục đích Đ đi TP. Pleiku để làm gì thì Vĩnh không biết. Khi đến Pleiku tại địa điểm mà Đ yêu cầu, lúc này do đêm khuya, trời tối, hơn nữa Đ, Th ngồi hàng ghế phía sau, khi dừng xe có một thanh niên đi xe máy đến vị trí xe dừng, lúc này Vĩnh không để ý phía sau mà chỉ chú ý phía trước nên không thấy họ trao đổi gì và cũng không nghe họ nói gì, khi nghe tiếng xe máy đi, Đ liền bảo quay về thì Vĩnh điều khiển xe trở về Mang Yang. Như vậy, hành vi của Vĩnh không cấu thành tội phạm.

Đối với Bùi Hữu Ng: Khi Đ, Th đến tiệm cầm cố điện thoại thì Ng kiểm tra điện thoại để đưa ra giá thỏa thuận, thì sau đó thống nhất giá 02 chiếc điện thoại là 3.700.000 đồng và đã chuyển tiền vào tài khoản của Đ. Mục đích của Đ cầm cố điện thoại để làm gì thì Ng không biết. Như vậy, hành vi của Ng không cấu thành tội phạm.

Đối với Lê Thiên Thịnh: Khi Nguyễn Khắc Ng hỏi thuê nhà thì hai bên đã thống nhất thỏa thuận giá cả, hình thức trả tiền. Thịnh không biết về việc Nguyễn Khắc Ng sử dụng ma túy và mua bán ma túy tại phòng trọ thuộc quản lý của mình. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra không xem xét xử lý đối với Thịnh.

Việc xử lý của Cơ quan điều tra đối với những người có tên trên là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét đến.

Đối với hành vi cung cấp chỗ ở và dụng cụ sử dụng ma túy cho các đối tượng Đào Đình Đ, Nguyễn Văn Th, Y H và Trịnh Xuân Hải sử dụng trái phép chất ma túy vào ngày 25/10/2020 và rạng sáng ngày 26/10/2020 của bị cáo Ng có dấu hiệu của tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên, tại điểm a, tiết 6.2, mục 6, Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA- VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thì “Người nghiện ma túy có chất ma túy (không phân biệt nguồn gốc ma túy do đâu mà có) cho người nghiện ma túy khác chất ma túy để cùng sử dụng trái phép thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Do đó hành vi của Nguyễn Khắc Ng không cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét đối với hành vi này của bị cáo Ng.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tuyên bố bị cáo Đào Đình Đ và Nguyễn Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc Ng 02 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc Ng 07 (Bảy) năm 06 (sáu) tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn Khắc Ng phải chấp hành hình phạt chung của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là 09 (Chín) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (Ngày 26/10/2020).

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đào Đình Đ 02 (Hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (Ngày 27/10/2020).

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (Ngày 15/01/2021).

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 của Bộ luật hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước ghi “(01)”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Võ Đình Tài và Bùi Sĩ Thà.

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước ghi “(02)”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Võ Đình Tài và Bùi Sĩ Thà.

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước ghi “Số 767/PC09, ngày 03/11/2020”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Võ Đình Tài và Nguyễn Minh Tâm.

+ 01 (một) ví da màu đen thu giữ tại nhà trọ của Nguyễn Khắc Ng.

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước có dòng chữ “Số 222/PC09, ngày 19/3/2021” và ghi số “(03)”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Nguyễn Đức Huy và Bùi Sĩ Thà.

+ 01 (một) phong bì công văn Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm: mặt trước có dòng chữ “Số 222/PC09, ngày 19/3/2021” và ghi số “(04)”, tại mép dán mặt sau có đóng các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký của các ông Đặng Đức Triết, Nguyễn Đức Huy và Bùi Sĩ Thà.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE 6S plus, màu vàng, đã cũ, có số IMEI: 355733077034004; 01 (một) điện thoại di dộng hiệu ASUS kèm sim số; 01 (một) điện thoại di động hiệu VIVO kèm sim số và số tiền 500.000 đồng, gồm 01 tờ polime mệnh giá 200.000đ có số seri: TM13937495; 01 tờ polime mệnh giá 200.000đ có số seri: KU11990935; 01 tờ polime mệnh giá 100.000đ có số seri: HT05253333.

- Trả lại cho chủ sở hữu: Trả cho Y H 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE 6 Plus, màu xám, đã cũ, có số IMEI: 358353069920404.

(Đặc điểm cụ thể theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05 tháng 5 năm 2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Yang và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mang Yang).

3. Án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Nguyễn Khắc Ng, Đào Đình Đ và Nguyễn Văn Th mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Thời hạn kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (15/6/2021) bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

356
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2021/HS-ST ngày 15/06/2021 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy 

Số hiệu:11/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Yang - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;