Bản án 11/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 về tội môi giới mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 11/2021/HS-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 03 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:01/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2021 về tội “Môi giới mại dâm”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2021 đối với:

Bị cáo: Phạm Hoàng Cẩm C, Giới tính: Nữ. Sinh năm: 1977, tại : tỉnh Hậu Giang. (Có mặt) Nơi đăng ký HKTT: Xã Xà Phiên, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Chỗ ở hiện nay: Tổ 13, ấp A, xã A, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Cha: Phạm Văn N, sinh năm: Không rõ. Mẹ: Lê Thị M, sinh năm: Không rõ. Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có bốn chị em. Chồng: Không. Con: Phạm Mạnh T, sinh năm 2003.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang được tại ngoại.

Người làm chứng: Bà Lý Thị H, sinh năm 1988; địa chỉ: Tổ 13, ấp A, xã A, huyên L, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Hoàng Cẩm C và Vũ Nhật T là bạn bè quen biết nhau từ trước. Vào khoảng 20 giờ ngày 05/9/2020, C đến quán cà phê “Như Tùng” (nay là quán “Cây Bàng”) tại ấp An Thạnh, xã An Ngãi, huyện Long Điền do T làm chủ để uống nước. Lúc này, Nguyễn Văn Hùng và Trần Văn Cường đến quán cà phê “Như Tùng” để uống nước và tìm gái mua dâm. Thấy T đang bận quét sân nên C nói với T để C hỏi khách và đem nước cho khách, T đồng ý. Sau khi đem nước ra cho Hùng và Cường, C hỏi Hùng và Cường có muốn mua dâm không, Hùng và Cường đồng ý. Do có đến hai người mua dâm nên C điện thoại cho Lý Thị H đến để bán dâm cùng với C, H đồng ý. Trong lúc chờ H đến, C thỏa thuận giá mua bán dâm với Hùng và Cường là 300.000đ một lần, Hùng và Cường đồng ý và đưa cho C số tiền 700.000đ (trong đó: trả tiền nước 50.000đ, tiền mua dâm C và H mỗi người 300.000đ là 600.000đ, còn lại 50.000đ tiền bo thêm cho H). Một lúc sau, H đi vào quán đến chòi C đang ngồi. Lúc này, Cường chọn H để mua dâm và Hùng chọn C để mua dâm. Sau đó, C và H dẫn Hùng và Cường đi vào 02 phòng ngủ phía sau bên trong quán cà phê “Như Tùng” để bán dâm. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, khi C và Hùng, H và Cường đang thực hiện hành vi qua hệ tình dục với nhau thì bị lực lượng công an phát hiện bắt quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, qua làm việc Phạm Hoàng Cẩm C đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên. Đồng thời, C khai nhận đây là lần đầu tiên C làm trung gian gọi cho H đến để bán dâm, việc C và H bán dâm cho khách tại quán của T thì T hoàn toàn không biết. Thời điểm đó T đang quét dọn phía trước cổng của quán nên không biết việc C thỏa thuận mua bán dâm với khách, C và H tự ý dẫn khách vào 02 phòng ngủ phía sau quán để bán dâm, C không nói cho T biết.

Vật chứng thu giữ và xử lý:

- 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 bao cao su chưa qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu PANTECH màu vàng (đây là điện thoại Phạm Hoàng Cẩm C sử dụng điện thoại cho Lý Thị H đến để bán dâm); số tiền 650.000đ (là tiền Hùng và Cường đưa cho C để mua dâm). Hiện đã chuyển C cục thi hành án dân sự huyện Long Điền quản lý chờ xử lý.

- Số tiền 5.000.000đ là tiền cá nhân của Phạm Hoàng Cẩm C; 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Hoàng Cẩm C. Đã trao trả lại cho C là chủ sở hữu.

- Số tiền 250.000đ là tiền cá nhân của Lý Thị H; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A50S màu đen; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lý Thị H. Đã trao trả lại cho H là chủ sở hữu.

- Số tiền 50.000đ (là Hùng và Cường trả tiền nước cho Vũ Nhật T); 01 máy tính bảng Tab 8 Pro hiệu Mobell màu vàng. Đã trao trả lại cho Vũ Nhật T là chủ sở hữu.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo theo nội dung của bản cáo trạng; đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 328; điểm i,s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 47 Bộ Luật hình sự; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 10 tháng tù giam.

- Về vật chứng: Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền phạm tội là 650.000đ và 01 điện thoại di động hiệu PANTECH màu vàng. Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 bao cao su chưa qua sử dụng.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo là đúng theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh tụng; bị cáo nói lời nói sau cùng đã ăn năn hối cải, hứa sẽ không tái phạm và xin được giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ; sau khi nghe quan điểm Kiểm sát viên, ý kiến của bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Long Điền, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Hoàng Cẩm C đã khai nhận toàn bộ hành vi môi giới mại dâm như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu. Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 05/9/2020, Phạm Hoàng Cẩm C bị phát hiện quả tang có hành vi làm trung gian môi giới để Lý Thị H bán dâm cho Trần Văn Cường tại một phòng ngủ trong quán cà phê “Như Tùng” (nay là quán “Cây Bàng”) thuộc ấp An Thạnh, xã An Ngãi, huyện Long Điền. Như vậy hành vi của bị cáo C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới mại dâm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự như sau: “1.

Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm, bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.” Bị cáo Phạm Hoàng Cẩm C có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc môi giới mại dâm là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội của mình; Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự quản lý Nhà nước, gây mất trật tự trị an, gây dư luận xấu trong xã hội. Xâm phạm đến đạo đức, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, xâm phạm đến sức khoẻ của con người. Mại dâm là một tệ nạn xã hội gây ra nhiều tác hại về mọi mặt của đời sống con người nên cần xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc, phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội; nhưng quá trình lượng hình có xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức độ hậu quả của hành vi phạm tội gây ra để quyết định mức hình phạt phù hợp với quy định của pháp luật.

cáo:

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị - Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít ngiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i,s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

- Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án tiền sự.

[4] Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, Bị cáo nhận thức và biết rõ việc môi giới mại dâm cho người khác mua bán dâm là vi phạm pháp luật song do hám lợi bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy việc áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo là cần thiết để có tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người lao động tự do và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Đối với Vũ Nhật T, không biết việc Phạm Hoàng Cẩm C và Lý Thị H thực hiện hành vi bán dâm tại quán cà phê của mình nên không có cơ sở để xử lý T về hành vi chứa mại dâm. Tuy nhiên, T thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hoạt động mua dâm, bán dâm ở cơ sở do mình quản lý, Cơ quan CSĐT Công an huyện Long Điền đã chuyển xử lý hành chính đối với T là đúng quy định.

Đối với Phạm Hoàng Cẩm C và Lý Thị H có hành vi bán dâm, Cơ quan CSĐT Công an huyện Long Điền đã chuyển xử lý hành chính đối với hành vi của C và H là đúng quy định.

[6] Về vật chứng trong vụ án:

- Đối với số tiền 650.000đ là tiền dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu PANTECH màu vàng C sử dụng vào mục đích gọi điện cho H đến bán dâm, là công cụ, phương tiện dùng để phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 bao cao su chưa qua sử dụng là công cụ, phương tiện dùng để phạm tội, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Phạm Hoàng Cẩm C phạm tội “Môi giới mại dâm”

- Áp dụng khoản 1 Điều 328; điểm i,s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 47 Bộ Luật hình sự; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự.

- Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Phạm Hoàng Cẩm C 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để chấp hành án.

2. Về vật chứng:

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 650.000đ (sáu trăm năm mươi ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0003562 ngày 04-01-2021 của C cục Thi hành án dân sự huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu PANTECH màu vàng - Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 bao cao su chưa qua sử dụng.

(Các vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại cơ quan C cục thi hành án dân sự huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo biên bản giao nhận vật chứng số 46/BB-THA ngày 04-01-2021).

3. Án phí: Bị cáo Phạm Hoàng Cẩm C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (03-02-2021), bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để yêu cầu xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 11/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:11/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;