Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO YÊN - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 18/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 33/2021/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/5/2021 và quyết định hoãn phiên toà số 08/2021/QĐST-HNGĐ ngày 02/6/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Lương Văn Q, sinh năm 1992 Địa chỉ: Bản B, xã B, huyện Bả, tỉnh Lào Cai Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Chị Đỗ Thị Hồng H, sinh năm: 1994 Địa chỉ: Bản L, xã B huyện B, tỉnh Lào Cai Vắng mặt lần hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện nộp ngày 22/3/2021, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Lương Văn Q trình bày:

Anh và chị Đỗ Thị Hồng H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 31/10/2014 tại UBND xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp tính nhau bất đồng quan điểm sống, đến giữa năm 2017 chị H đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở từ đó đến nay anh chị sống ly thân không ai quan tâm tới nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Toà án giải quyết cho anh ly hôn với chị H. Về con chung, vợ chồng anh chị có một con chung là cháu Lương Duy K sinh ngày 20/6/2013, hiện nay cháu đang ở cùng chị H. Khi ly hôn, anh đề nghị Toà án giải quyết cho để chị H được trực tiếp nuôi dưỡng cháu và anh không cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Ngoài ra anh chị không có tài sản gì chung, không nợ ai và không cho ai vay nợ nên anh không đề nghị Toà án giải quyết.

Đối với bị đơn chị Đỗ Thị Hồng H đã được tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án nhưng chị không có ý kiến trả lời đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Quá trình giải quyết vụ án Toà án đã triệu tập, thông báo về phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải nhưng chị H không có mặt nên không tiến hành hoà giải được.

Nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ các tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, bị đơn không cung cấp chứng cứ gì. Toà án đã hỏi ý kiến của cháu Lương Duy K và cháu có nguyện vọng muốn ở với mẹ. Ngoài ra Toà án đã xác minh về tình trạng hôn nhân giữa anh Q và chị H, công việc thu nhập của chị H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên phát biểu quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng: Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 147, 238 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, xử cho anh Lương Văn Q ly hôn với chị Đỗ Thị Hồng H. Đề nghị xử giao cháu Lương Duy K cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi, anh Q không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về án phí, anh Q phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng: Anh Lương Văn Q có đơn yêu cầu giải quyết vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” với chị Đỗ Thị Hồng H. Căn cứ vào Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Anh Q có đơn xin xét xử vắng mặt, chị H vắng mặt tại phiên toà lần thứ hai không có lý do, Toà án xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì anh Lương Văn Q và chị Đỗ Thị Hồng H có đăng ký kết hôn ngày 31/10/2014 tại UBND xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai, hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống với nhau anh chị có mâu thuẫn xảy ra và nguyên nhân theo anh Q trình bày là do anh chị không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và đã sống ly thân từ năm 2017 tới nay không ai quan tâm tới nhau. Theo lời khai của người làm chứng và xác minh tại địa phương thì lời trình bày của anh Q là đúng sự thật. Xét thấy mâu thuẫn của anh chị đã thực sự trầm trọng và không thể hàn gắn được, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Q, xử cho anh Q ly hôn với chị H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3]. Về con chung:

Anh Q và chị H có một con chung là cháu Lương Duy K sinh ngày 20/6/2013, cháu khoẻ mạnh phát triển bình thường và có nguyện vọng được ở với mẹ. Theo xác minh tại địa phương thì trong thời gian anh chị ly thân chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu K, chị H có thu nhập đủ khả năng và điều kiện nuôi dưỡng con chung. Căn cứ các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Q, giao cháu K cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng để cháu được ổn định cuộc sống. Do chị H không có ý kiến trả lời về yêu cầu cấp dưỡng nên anh Q không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

[4]. Về tài sản chung và công nợ chung: Anh Q không đề nghị gì về tài sản chung và công nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Anh Q phải chịu án phí dân sự sơ thâm theo quy đinh của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Xử cho anh Lương Văn Q ly hôn chị Đỗ Thị Hồng H.

2/ Về con chung, xử giao cháu Lương Duy K sinh ngày 20/6/2013 cho chị Đỗ Thị Hồng H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Lương Văn Q không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, anh Lương Văn Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

3/ Về án phí: Anh Lương Văn Q phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai theo biên lai số 0001996 ngày 22/3/2021. Anh Q đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Yên - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;