Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ LY HÔN

Trong ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 538/2020/TLST-HN ngày 12 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 821/2020/QĐXX-ST ngày 30 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Ngọc N, sinh năm 1977 Địa chỉ: 221E/6 khu vực A, phường B, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1974 Địa chỉ: 221E/6 khu vực A, phường B, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

(Các đương sự có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/8/2020 và bản tự khai nguyên đơn – bà Phạm Ngọc N - trình bày:

Bà và ông Nguyễn Văn H tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2007, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn K, huyện C, tỉnh Đồng Tháp cấp giấy chứng nhận kết hôn. Trong thời gian chung sống giữa ông bà phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống. Sau nhiều lần cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng để cùng chăm sóc cho con nhưng không đạt kết quả nên bà yêu cầu được ly hôn với ông H.

Bà và ông H có 02 con chung tên Nguyễn A (nam) sinh ngày 26/3/2007 và Nguyễn Thái Ng(nữ) sinh ngày 01/01/2013. Sau khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung, yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi mỗi con 5.000.000đồng/tháng. Tuy nhiên, tại buổi hòa giải thì bà N có ý kiến ông H cấp dưỡng con theo khả năng và sự tự nguyện của ông H, bà không có yêu cầu về vấn đề này.

Bà và ông H không có tài sản chung, nợ chung. Bị đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:

Ông thống nhất với phần trình bày của bà N về quá trình tiến đến hôn nhân, con chung và nợ chung. Ông cũng xác định trong thời gian chung sống giữa ông bà cũng có những mâu thuẫn nhất định, ông bà đã từng ngồi nói chuyện với nhau để bà N suy nghĩ nhưng bà N vẫn làm đơn khởi kiện xin ly hôn. Nguyện vọng của ông là vợ chồng đoàn tụ để cùng chăm sóc cho con nên ông không đồng ý ly hôn.

Tòa án đã lập biên bản quy định thời gian để tạo điều kiện cho các bên tìm biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hết thời gian quy định, bà N giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bà cho biết đây là lần thứ ba bà nộp đơn xin ly hôn, hai lần trước bà rút đơn với mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng chăm sóc cho con nhưng cuộc sống gia đình vẫn không hạnh phúc, giữa vợ chồng không có sự quan tâm, chăm sóc, chia sẻ. Tình trạng này diễn ra trong một thời gian dài chứ không phải gần đây. Ông H vắng mặt dù được Tòa án triệu tập. Do đó, vụ kiện được đưa ra xét xử.

Tại phiên tòa: Bà N giữ nguyên yêu cầu ly hôn, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục 2 con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Bà và ông H xây dựng được một căn nhà trên phần đất cha mẹ ruột bà cho nhưng bà không yêu cầu giải quyết, ông bà không có nợ chung.

Ông H không đồng ý ly hôn. Trường hợp yêu cầu ly hôn của bà N được chấp nhận thì ông cũng đồng ý giao 2 con cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Ông có trách nhiệm với con theo điều kiện kinh tế của mình mà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông bà tự thỏa thuận về tài sản chung, không có nợ chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều phát biểu quan điểm:

- Về tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục luật định. Đương sự thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.

- Về giải quyết vụ án: Bà Phạm Ngọc N và ông Nguyễn Văn H chung sống có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống có mẫu thuẫn nên bà N yêu cầu ly hôn, được trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Qua trình bày của các bên tại phiên tòa cũng như trong quá trình giải quyết cho thấy mâu thuẫn giữa bà N và ông H đã thực sự trầm trọng nên yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở. Bà N yêu cầu nuôi dưỡng 2 con chung, ông H cũng thống nhất. Về vấn đề cấp dưỡng: trong đơn kiện bà N yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi 2 con chung nhưng tại phiên tòa bà N rút yêu cầu nên đình chỉ. Tài sản chung nguyên đơn, bị đơn thống nhất tự thỏa thuận nên không xem xét. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn, yêu cầu được trực tiếp nuôi 2 con chung của nguyên đơn. Đình chỉ yêu cầu cấp dưỡng của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bà Phạm Ngọc N và ông Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn K, huyện C, tỉnh Đồng Tháp cấp giấy chứng nhận kết hôn số 24 ngày 02/3/2007 nên là hôn nhân hợp pháp. Bà Phạm Ngọc N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn H nên xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp ly hôn”, tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Ninh Kiều theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Ngọc N và lời trình bày của ông Nguyễn Văn H:

Theo bà Phạm Ngọc N trình bày thì trong quá trình chung sống giữa bà và ông Nguyễn Văn H có mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống dẫn đến đời sống vợ chồng không được hạnh phúc. Mặc dù bà đã tìm cách để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không đạt kết quả nên bà yêu cầu ly hôn. Lời trình bày của bà N phù hợp với lời trình bày của ông H. Ông H cũng xác định giữa ông bà có những mâu thuẫn nhất định nhưng không đến mức trầm trọng nên ông không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; vợ chồng có nghĩa vụ chung sống với nhau. Tuy nhiên, bà N và ông H đã sống ly thân trong thời gian tương đối dài (theo trình bày của bà N là khoảng 3 năm). Mặt khác, Tòa án cũng đã quy định thời gian để tạo điều kiện cho các bên tìm cách hàn gắn tình cảm nhưng đến nay vẫn không có biện pháp nào. Tại phiên tòa, bà N vẫn kiên quyết yêu cầu ly hôn. Từ đó, cho thấy hôn nhân giữa bà N và ông H mâu thuẫn đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của bà N là có cơ sở chấp nhận.

Về con chung: Bà N và ông H khai thống nhất có 02 con tên Nguyễn A (nam) sinh ngày 26/3/2007 và Nguyễn Thái Ng(nữ) sinh ngày 01/01/2013. Sau khi ly hôn, bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung chưa thành niên, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Ông H cũng thống nhất với yêu cầu của bà N. Cháu Nguyễn A và Nguyễn Thái Ngcũng có nguyện vọng được sống với bà N. Do đó, giao 02 con chung cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp. Tại đơn khởi kiện bà N yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con nhưng trong quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa bà N không yêu, đây được xem là sự thay đổi ý kiến đối với nội dung trong phạm vi yêu cầu khởi kiện và là sự tự nguyện của bà N nên ghi nhận.Việc thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung là quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con mà không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà N và ông H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về nợ chung: Bà N và ông H trình bày không có nợ chung nên ghi nhận. Nếu sau này phát sinh tranh chấp và có đơn kiện sẽ được xem xét giải quyết thành vụ kiện khác.

[3] Quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều về việc tuân theo pháp luật tố tụng và hướng giải quyết vụ án là phù hợp.

[4] Về án phí: Bà N phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Điều 146, Điều 147 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân Sự;

- Các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên án:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Ngọc N.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Ngọc N được ly hôn với ông Nguyễn Văn H.

- Về con chung: Giao 02 con chung tên Nguyễn A (nam) sinh ngày 26/3/2007 và Nguyễn Thái Ng(nữ) sinh ngày 01/01/2013 cho bà Phạm Ngọc N trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Bà N không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Việc thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung là quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung: Bà N và ông H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

- Về nợ chung: Ghi nhận lời trình bày của bà N, ông H là không có nợ chung. Nếu sau này phát sinh tranh chấp và có đơn kiện sẽ được xem xét giải quyết thành vụ kiện khác.

2. Án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Phạm Ngọc N phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng), cấn trừ vào 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí bà N đã nộp theo biên lai thu số 003064 ngày 16/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ thì bà N đã nộp đủ tiền án phí.

3. Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;