Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ LY HÔN

Trong ngày 12 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 410/2020/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020, về việc: “ Ly hôn ”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:141/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 27 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

 1.Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Tr, sinh năm 1981 Địa chỉ: số 458A/35, ấp A, xã Q, huyện H, tỉnh Vĩnh Long.

2.Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu T, sinh năm 1987 ( vắng mặt) Địa chỉ: số 121/7, ấp H, xã P, huyện H, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 30 tháng 9 năm 2020 và biên bản không T hành hòa giải được của nguyên đơn Đặng Thị Tr trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 2007 chị và anh T có quen biết và T tới kết hôn với nhau, cả hai có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Vĩnh Long và được Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Vĩnh Long cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 02/02/2010, sau khi kết hôn vợ chồng ra ngoài thuê nhà trọ sinh sống. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn do anh T không lo làm ăn mà thường xuyên ăn nhậu, cờ bạc, không lo cho cuộc sống gia đình, ngoài ra còn mâu thuẫn về tiền bạc, dẫn đến vợ chồng bất đồng ý kiến cự cải, vì vậy anh T bỏ đi làm ăn xa không về, từ đó chị và anh T không còn sống chung từ tháng 7/2018 đến nay. Nay chị Tr nhận thấy không còn tình cảm với anh T nên yêu cầu ly hôn với anh T.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Đặng Minh D, sinh ngày 27/6/2010 và Nguyễn Đặng Minh N, sinh ngày 21/02/2019 hiện tại do chị Tr đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị yêu cầu được chăm sóc nuôi dưỡng 02 con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết.

Tòa án đã gởi thông báo thụ lý và thông báo về phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Nguyễn Hữu T đến Tòa án làm việc nhưng anh T không đến. Ngày 02/12/2020 Tòa án T hành xác minh làm việc với người nhà của anh T, biết được anh T ra ngoài thuê nhà trọ ở chung vợ con, hộ khẩu còn đăng ký ở ấp Phú Hưng, xã Hòa Phú, huyện Long Hồ, hiện nay T đã bỏ nhà đi làm ăn xa, không có về và cũng không có liên lạc với người nhà, vợ chồng không còn yêu thương thì ly hôn.

Tòa án đã triệu tập hai lần anh T đến Tòa án làm việc, đến ngày anh T không đến, vì vậy Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn chị Đặng Thị Tr vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Hữu T, vì vợ chồng chung sống không hạnh phúc, vợ chồng có cự cải, anh T không lo cho vợ con, hiện nay vợ chồng đã ly thân không còn sống chung, anh T đã bỏ nhà đi làm ăn xa, không về lo lắng cho vợ con, vì vậy yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Đặng Minh D, sinh ngày 27/6/2010 và Nguyễn Đặng Minh N, sinh ngày 21/02/2019 hiện tại do chị đang nuôi dưỡng, chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng 02 con.

Về cấp dưỡng: Tại đơn khởi kiện chị Tr yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ, trong quá trình hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Tr rút lại yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Tại bản khi ý kiến của cháu Nguyễn Đặng Minh Duy cha mẹ ly hôn con muốn sống với mẹ.

Về tài sản chung và về nợ chung chị không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Hữu T đã được Tòa án triệu tập đến Tòa án xét xử lần hai nhưng anh T vẫn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tòa án xác minh sự vắng mặt của bị đơn tại nơi cư trú, việc Tòa án thu thập chứng cứ đúng quy định tại Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự.

 Xét thấy hôn nhân giữa chị Tr và anh T là hôn nhân hợp pháp vì vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa Phú vào năm 2012. Trong quá trình chung sống thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh T mê cờ bạc không lo cho gia đình và vợ chồng đã ly thân từ tháng 7/2018 cho đến nay. Cho nên hôn nhân giữa chị Tr và anh T có mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó cần thiết cho ly hôn.

Từ phân tích trên quan điểm của Viện kiểm sát:

- Căn cứ khoản 1 điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 244 BLTTDS năm 2015 - Căn cứ điều Điều 56, Điều 58, Điều 81, 82, 83, Luật hôn nhân gia đình năm 2014 - Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Tr được ly hôn với anh Nguyễn Hữu T.

- Đình chỉ yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con của chị Tr - Về con chung: Giao 2 cháu Nguyễn Đặng Minh Duy, sinh ngày 27/6/2010 và Nguyễn Đặng Minh Ngọc, sinh ngày 21/02/2019 cho chị Tr nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: vợ chồng không yêu cầu nên không đặt ra xem xét - Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Buộc chị Tr phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Hữu T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần đến Tòa án để mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T vẫn không đến Tòa án làm việc, Tòa án có làm việc người thân của anh T, xác nhận anh T có đăng ký hộ khẩu thường trú ở ấp Phú Hưng, xã Hòa Phú, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long, hiện nay anh đã bỏ đi làm ăn xa thỉnh thỉnh có về, từ khi Tòa án giải quyết đến nay anh T không có về nhà. Xét anh Nguyễn Hữu T ở địa chỉ này từ đó cho đến nay khi anh T bỏ đi cũng không thay đổi địa chỉ, nên Tòa án T hành giải quyết vụ án ly hôn này theo quy định của pháp luật.

Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử đã triệu tập lần hai anh T đến Tòa án xét, đến ngày xét xử anh T vẫn vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử thống nhất giải quyết vắng mặt anh Nguyễn Hữu T.

[2] Về nội dung:

 [2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị Tr và anh Nguyễn Hữu T, T đến hôn nhân trên cơ sở quen biết, cả hai có tổ chức đám cưới, vợ chồng chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Phú, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 02/02/2010 nên đây là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Xét về mâu thuẫn chị Tr cho rằng vợ chồng chung sống đã mâu thuẫn trầm trọng, do anh T không lo lắng cho vợ con, không lo làm ăn, mà ăn chơi dẫn đến vợ chồng cự cải nhau, anh T đã bỏ đi làm ăn xa thỉnh thoảng về thăm con, không ai nói với ai. Tại phiên tòa hôm nay anh T vắng mặt, không gửi bản khai ý kiến gì về việc chị Tr yêu cầu ly hôn, yêu cầu nuôi con với anh. Xét hôn nhân giữa chị Tr và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, cả hai đã không còn sống chung, không còn thương yêu chăm sóc lẫn nhau, hôn nhân không đạt được. Vì vậy chấp nhận cho chị Đặng Thị Tr được ly hôn anh Nguyễn Hữu T là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2.] Về nuôi con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Đặng Minh Duy, sinh ngày 27/6/2010 và Nguyễn Đặng Minh Ngọc, sinh ngày 21/02/2019 hiện tại do chị đang nuôi dưỡng, chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng 02 con, chị rút lại không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Anh T vắng mặt phiên tòa, hiện nay hai cháu do chị Tr chăm sóc nuôi dưỡng, cháu Minh Duy có bản khai ý kiến cha mẹ ly hôn con muốn sống với mẹ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao hai con cho chị Tr chăm sóc nuôi dưỡng được quy định tại Điều 81, 82 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Anh Nguyễn Hữu T có quyền và nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản anh T thực hiện quyền này.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Tr rút lại không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ, nên Hội đồng xét xử đình chỉ việc chị rút lại không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Tr không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Xét lời phát biểu của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận như những nhận định ở trên.

[3] Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 35, 39, 97, 244, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

Căn cứ Điều 9, 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

 Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Tr.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đặng Thị Tr được ly hôn với Nguyễn Hữu T.

2. Về con chung: Giao hai con chung tên Nguyễn Đặng Minh Duy, sinh ngày 27/6/2010 và Nguyễn Đặng Minh Ngọc, sinh ngày 21/02/2019 cho Đặng Thị Tr chăm sóc nuôi dưỡng.

Anh Nguyễn Hữu T có quyền và nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản anh T thực hiện quyền này.

3. Đình chỉ việc chị Tr rút lại không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Tr không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Buộc chị Đặng Thị Tr phải nộp 300.000đ (Ba Tr ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân sơ thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006084 ngày 07/10/2020 của cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Hồ, chị Tr đã nộp xong, không phải nộp thêm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Án xử sơ thẩm công khai báo cho các đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Đối với người vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được thông báo, niêm yết tại nơi cư trú của người vắng mặt ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

385
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 12/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;