Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 02/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

 BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

 Ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 336/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Phương A; cư trú tại số X, ngõ Y, đường T, quận Đ, Thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên toà (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Phạm Văn T; cư trú tại thôn A, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên tòa (không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tại các bản tự khai, trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Phương A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Phương A và anh Phạm Văn T kết hôn với nhau do tự nguyện và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng vào ngày 16 tháng 10 năm 2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng nhau tại gia đình bố, mẹ đẻ anh Phạm Văn T ở thôn A, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hợp nên thường xuyên xảy ra va chạm cãi, chửi nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình khuyên ngăn, hoà giải nhiều lần nhưng không có kết quả mà ngày càng căng thẳng, trầm trọng và không còn khả năng khắc phục. Do mâu thuẫn căng thẳng từ năm 2018, chị Nguyễn Thị Phương A đã bỏ về nhà bố, mẹ đẻ ở số X, ngõ Y, đường T, quận Đ sống ly thân với anh Phạm Văn T; hiện tại vợ chồng không ai quan tâm và trách nhiệm đến nhau. Nay chị Nguyễn Thị Phương A xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Văn T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung Phạm Hà Bảo Tr - sinh ngày 19 tháng 01 năm 2013 và Phạm Hoàng Bảo N - sinh ngày 06 tháng 8 năm 2016. Con chung Phạm Hà Bảo Tr hiện do chị đang nuôi dưỡng, con chung Phạm Hoàng Bảo N hiện do anh T nuôi dưỡng. Ly hôn chị Nguyễn Thị Phương A đề nghị Tòa án giao con chung Phạm Hà Bảo Tr cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Phạm Hoàng Bảo N cho anh T nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng nuôi con do chị và anh Phạm Văn T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Chị Nguyễn Thị Phương A không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản.

Đối với bị đơn anh Phạm Văn T, trong quá trình giải quy t vụ án, đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh Phạm Văn T đều vắng mặt không có lý do nên không có quan điểm của anh Phạm Văn T trước yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Phương A Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A phát biểu ý kiến khẳng định:

- Về việc tuân theo pháp luật về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt nhiều lần, không có lý do nên đã không chấp hành các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 Bộ luật Dân sự, các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Nguyễn Thị Phương A được ly hôn với anh Phạm Văn T; về con chung, giao con chung Phạm Hà Bảo Tr - sinh ngày 19 tháng 01 năm 2013 cho chị Nguyễn Thị Phương A trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Phạm Hoàng Bảo N - sinh ngày 06 tháng 8 năm 2016 cho anh Phạm Văn T trực tiếp nuôi dưỡng; thời hạn nuôi con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật; Về việc cấp dưỡng nuôi con và về tài sản chung: Do đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Phương A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc xét xử vắng mặt của các đương sự: Bị đơn, anh Phạm Văn T đã được Toà án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục tố tụng nhưng anh Phạm Văn T vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do; chị Nguyễn Thị Phương A có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn anh Phạm Văn T hiện đang cư trú tại thôn A, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng nên căn cứ khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện A có thẩm quyền giải quyết vụ án.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của nguyên đơn, các tài liệu, chứng cứ khác do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập có trong hồ sơ vụ án đã xác định chị Nguyễn Thị Phương A và anh Phạm Văn T kết hôn với nhau do tự nguyện, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng vào ngày 16 tháng 10 năm 2012. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp; hiện tại đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Phương A và anh Phạm Văn T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Nguyễn Thị Phương A được ly hôn với anh Phạm Văn T.

[4] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Phương A và anh Phạm Văn T có 02 con chung Phạm Hà Bảo Tr - sinh ngày 19 tháng 01 năm 2013 và Phạm Hoàng Bảo N - sinh ngày 06 tháng 8 năm 2016. Ly hôn chị Nguyễn Thị Phương A có quan điểm đề nghị Tòa án giao con chung Phạm Hà Bảo Tr cho chị Nguyễn Thị Phương A trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Phạm Hoàng Bảo N - sinh ngày 06 tháng 8 năm 2016 cho anh Phạm Văn T trực tiếp nuôi dưỡng; anh Phạm Văn T vắng mặt, không có quan điểm về việc nuôi con chung. Việc nuôi con chung vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của cha, mẹ nên giao con chung cho ai nuôi dưỡng cũng phải đảm bảo các con chung được nuôi dạy và phát triển trong điều kiện tốt nhất. Xét thấy điều kiện nuôi con chung của các bên là ngang nhau và để con chung có cuộc sống ổn định sau khi ly hôn và phù hợp với nguyện vọng của con chung cần giao con chung Phạm Hà Bảo Tr cho chị Nguyễn Thị Phương A trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Phạm Hoàng Bảo N cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng.

[5] Ly hôn chị Nguyễn Thị Phương A có quan điểm việc cấp dưỡng nuôi con sẽ do chị và anh Phạm Văn T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét quan điểm chị Nguyễn Thị Phương A đưa ra là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận; việc cấp dưỡng nuôi con chung sẽ do các đương sự tự thỏa thuận, Tòa án không xem xét, giải quyết. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

[6] Về tài sản: Do các đương sự không có yêu cầu nên Toà án không xem xét, giải quyết. Nếu các bên đương sự có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con chung hoặc về tài sản, Tòa án sẽ xem xét giải quyết b ng vụ án dân sự khác khi đương sự có yêu cầu.

[7] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Phương A phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; các điều 143, 147, 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ các điều 6, 7, 9 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016, Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Phương A được ly hôn với anh Phạm Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung Phạm Hà Bảo Tr - sinh ngày 19 tháng 01 năm 2013 cho chị Nguyễn Thị Phương A trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung Phạm Hoàng Bảo N - sinh ngày 06 tháng 8 năm 2016 cho anh Phạm Văn T trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung do các đương sự tự thỏa thuận, Tòa án không xem xét giải quyết.

Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản: Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Phương A phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước. Chị Nguyễn Thị Phương A đã nộp số tiền 300.000đ tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng (theo Biên lai thu tiền số 0008627 ngày 02 tháng 7 năm 2020) nên không phải nộp nữa.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 02/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:11/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;