TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 11/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 01 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 908/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 172/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thúy H, sinh năm 1988; thường trú: Thôn 5, xã E, huyện C, tỉnh Đ; tạm trú: Số 28/21 khu phố Th, phường D, thành phố D, tỉnh B. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Minh S, sinh năm 1986; thường trú: Xóm 8, xã B, huyện L, tỉnh H; tạm trú: Số 28/21 khu phố Th, phường D, thành phố D, tỉnh B. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 21 tháng 10 năm 2020 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Phạm Thị Thúy H trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh S tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2013. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện L, tỉnh H và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 09, quyển số 01, ngày 25/02/2013. Chị H xác định quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh S không chăm chỉ làm việc, không phụ chị H về kinh tế để trang trải cuộc sống sinh hoạt gia đình, không dành thời gian chăm sóc vợ con. Từ đó, vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Chị H đã cố gắng Hn gắn tình cảm nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Minh S.
- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Phạm Hà Minh Kh, sinh ngày 21/7/2015. Chị H tự mở tiệm kinh doanh, thu nhập ổn định mỗi tháng khoảng 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng, có chỗ ở ổn định và có thời gian để chăm sóc con. Vì vậy, sau khi ly hôn chị H yêu cầu được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Minh S đã được Tòa án thông báo tham gia tố tụng, thông báo yêu cầu cung cấp chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng anh không đến Tòa án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tHnh phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên căn cứ vào các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định. Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào các ngày 12/01/2021 và ngày 01/02/2021 nhưng đều vắng mặt không lý do. Căn cứ các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
[2.1] Chị H và anh S tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện L, tỉnh H và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 09, quyển số 01, ngày 25/02/2013 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
[2.2] Chị H xác định quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng năm 2018 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh S không chăm chỉ làm việc, không phụ chị H về kinh tế để trang trải cuộc sống sinh hoạt gia đình, không dành thời gian chăm sóc vợ con. Từ đó, vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Chị H đã cố gắng hòa gắn tình cảm nhiều lần nhưng không có kết quả. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng quá trầm trọng không thể hàn gắn được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh S.
[2.3] Qúa trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh, trước khi Tòa án thụ lý vụ án chị H và anh S không ai có đơn đề nghị hòa giải tại cơ sở, phù hợp với lời khai của nguyên đơn.
[2.4] Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc; để đạt được mục đích đó vợ chồng cần phải thương yêu, tin tưởng, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt, xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc. Chị H xác định quan hệ hôn nhân của vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, phát sinh trong thời gian dài không hòa gắn được. Anh S đã được Tòa án triệu tập làm việc và tham gia hòa giải nhưng đều vắng mặt, không cung cấp lời khai, không cung cấp tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Như vậy chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị H và anh S đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị H yêu cầu được ly hôn với anh S là có căn cứ chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.
[3] Về con chung: Chị H xác định quá trình chung sống vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Phạm Hà Minh Kh, sinh ngày 21/7/2015. Hiện nay cháu Khuê đang sống cùng chị H. Khi Tòa án giải quyết việc ly hôn cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho ba hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, cháu Kh hiện còn nhỏ rất cần sự chăm sóc của người mẹ. Quá trình giải quyết vụ án anh S không đến Tòa án làm việc, không có ý kiến về vấn đề con chung khi vợ chồng ly hôn. Chị H tự kinh doanh, có thu nhập ổn định khoảng 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng/tháng nên đủ khả năng kinh tế để chăm sóc, nuôi dưỡng con. Anh S được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt, không có ý kiến về con chung, không cung cấp chứng cứ chứng minh anh có việc làm và thu nhập. Vì vậy, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là có căn cứ chấp nhận, phù hợp với Điều 81 và Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình.
[4] Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[6] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị Thúy H phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 và các Điều 227, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Thúy H đối với anh Nguyễn Minh S về việc ly hôn, nuôi con.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Thúy H được ly hôn với anh Nguyễn Minh S. (Giấy chứng nhận kết hôn số 09, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã Bc, huyện L tỉnh H cấp ngày 25/02/2013).
- Về con chung: Giao 01 (một) con chung tên Nguyễn Phạm Hà Minh Kh, sinh ngày 21/7/2015 cho chị Phạm Thị Thúy H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Phạm Thị Thúy H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
Sau khi ly hôn, chị H và anh S đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh S lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị H nuôi con thì chị có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.
- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Phạm Thị Thúy H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị Thúy H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0048836 ngày 29/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự tHnh phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 11/2021/HNGĐ-ST ngày 01/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 11/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/02/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về