TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 11/2021/DS-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ DỊCH VỤ
Ngày 31 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 10/TLST-DS ngày 15 tháng 4 năm 2021 về "Tranh chấp hợp đồng dân sự dịch vụ", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị L, sinh năm 1972, địa chỉ: Đội 8, thôn T, xã P, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt;
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Phi T, sinh năm 1953, địa chỉ: Xóm 3, tổ dân phố, thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt;
3. Người làm chứng:
+ Bà Bùi Thị L, sinh năm 1965, địa chỉ: Khóm 1, tổ dân phố T, thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
+ Ông Trần Thúc C, địa chỉ: Đội quản lý chợ T, thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt;
+ Bà Lê Thị H, địa chỉ: Tổ dân phố P, thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 07/4/2021, bản tự khai ngày 05/5/2021 cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Thị L đều trình bày: Ông Nguyễn Phi T là người ký hợp đồng nhận thầu với Đội quản lý chợ T về việc quét dọn vệ sinh tại chợ T. Ngày 01/3/2020, giữa bà và bà Bùi Thị L với ông Nguyễn Phi T ký hợp đồng thu gom rác ở chợ Tréo và bóc rác lên xe: Bà và bà L đảm nhận công việc thu gom rác và bóc rác lên xe rác của Ban quản lý các công trình công cộng huyện Lệ Thủy; thời hạn của hợp đồng 01 năm (từ 01/3/2020 đến 01/3/2021); lương mỗi người 3.000.000 đồng/tháng, 2 người 6.000.000 đồng; hai bên thỏa thuận, hàng tháng bà và bà L nhận tiền lương tại Đội quản lý chợ T là 3.500.000 đồng và nhận tiếp ở ông Nguyễn Phi T 2.500.000 đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên thực hiện hàng tháng đúng như trong hợp đồng nhưng đến tháng 10 và tháng 11 năm 2020, ông T không thực hiện trả lương cho bà và bà L, bà đã nhiều lần đến yêu cầu ông T trả tiền nhưng ông T không trả mà con trai ông T đòi đánh, ông T cho rằng do bị lũ lụt, ông định trả nửa tháng lương cho bà và bà L nhưng bà và bà L không chấp nhận vì thực tế bà và bà L chỉ nghỉ lụt 3 ngày nước to, còn khi nước hạ thì bà và bà L phải đến chợ dọn vén rác thải cho đến khi nước ra hết. Do lượng rác sau lụt nhiều nên bà và bà L phải làm tăng thêm thời gian và gọi cả người nhà đến làm giúp, đồng thời bà và bà L tiếp tục thực hiện như hợp đồng là dọn vén, thu gom rác và bóc rác lên xe, nhưng do ông T không thực hiện trả lương tháng 10 và tháng 11 năm 2020 cho bà và bà L là 2.500.000 đồng/tháng x 2 tháng = 5.000.000 đồng. Nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông T phải trả cho bà số tiền 2.500.000 đồng tiền lương tháng 10 và tháng 11 năm 2020.
Bị đơn ông Nguyễn Phi T trình bày qua bản tự khai ngày 05/5/2021, cũng như tại phiên tòa: Ông là người ký hợp đồng với Đội quản lý chợ T về việc vệ sinh thu gom rác và bóc rác lên xe đã mấy năm nay, ông thừa nhận giữa ông với bà Bùi Thị Lvà bà Trần Thị L có ký hợp đồng thu gom rác và bóc rác lên xe, thời hạn hợp đồng và giá trị hợp đồng như bà L trình bày và như trong Hợp đồng ngày 01/3/2020. Quá trình thực hiện hợp đồng nói chung hai bên thực hiện tốt, đến tháng 10/2020 có 02 trận lũ lụt rất lớn, chợ chỉ họp 11 ngày còn 19 ngày không có chợ. Ông thầu lương tự trang trãi, có chợ mới quét rác, không có chợ thì ông nghĩ và tổ vệ sinh và tổ rác cũng nghỉ. Vì thế đến cuối tháng 11 trả lương tháng 10, ông đã gọi bà L và bà L đến trao đổi việc ảnh hưởng lũ lụt tháng 10 chợ không họp kéo dài, ông không thu phí, 02 người không làm rác nên lương tháng 10 ông xin trả cho 02 người ½ tháng là 1.250.000 đồng, bà L, bà L không chịu, hai bên nói qua nói lại rồi 02 người tự cắt hợp đồng không làm nữa nên lương tháng 10 và tháng 11/2020 ông giữ lại không trả cho bà L và bà L. Ông làm như vậy là đúng như trong hợp đồng đã ký vì trong hợp đồng có thỏa thuận không được đơn phương hủy hợp đồng với lý do không chính đáng, nếu một người bị ốm thì người còn lại phải đảm đương công việc hoặc thuê người khác thực hiện công việc. Do đó ông không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L.
Người làm chứng bà Bùi Thị L trình bày tại bản tự khai ngày 18/6/2021: Bà nhất trí toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện và trình bày của bà Trần Thị L, việc ông Nguyễn Phi T không trả tiền công theo hợp đồng đã ký là vi phạm. Hiện nay bà cũng khởi kiện ông Nguyễn Phi Tvới nội dung như bà L khởi kiện bằng một vụ án khác đối với ông T nên trong vụ án này bà không có ý kiến gì.
Người làm chứng ông Trần Thúc C trình bày tại bản tự khai ngày 18/6/2021: Ông là Đội trưởng, Đội quản lý chợ T, ông đã ký hợp đồng quét dọn vệ sinh, thu gom rác tại chợ T với ông Nguyễn Phi T theo hợp đồng ngày 01/3/2020, với nội dung: Ông Nguyễn Phi T đảm nhận công việc quét dọn làm vệ sinh toàn bộ khu vực chợ và bóc rác lên xe đảm bảo gọn gàng, sạch sẽ, chịu trách nhiệm thu phí và vệ sinh nhà vệ sinh chợ, được phép sử dụng, quản lý nguồn nước ở chợ và chịu trách nhiệm thanh toán tiền nước theo khối lượng sử dụng; thời hạn hợp đồng từ ngày 01/3/2020 đến ngày 01/3/2021; chịu sự quản lý, điều hành của Đội quản lý chợ T; ông T được quyền thuê lại lao động để thực hiện công việc theo hợp đồng; giá trị công theo hợp đồng 2.100.000 đồng/tháng, ngoài số tiền trong hợp đồng, Đội quản lý chợ hỗ trợ thêm việc quét dọn vệ sinh một số khoản. Tổng cộng toàn bộ, ông T được nhận hàng tháng là 3.500.000 đồng. Riêng về phần thu phí nhà vệ sịnh ông T tự trang trãi, ông T đã thuê lại bà Bùi Thị L và bà Trần Thị L đảm nhận việc quét dọn vệ sinh chợ và bốc rác lên xe. Trong thời gian thực hiện hợp đồng không có vấn đề gì xảy ra, đến tháng 10/2020 do lũ lụt, sau khi nước rút, chợ tồn đọng lượng rác nhiều, cần khắc phục để đưa chợ vào hoạt động, trong thời gian này đội quản lý chợ đã liên lạc nhiều lần với ông T nhưng ông nói ông đang điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện Lệ Thủy, có gì gọi bà Lê Thị H, sau đó đội đã gọi bà H thì bà H trả lời bận không đến được cần gì gọi bà L và bà L, sau khi gọi thì bà L và bà L đến chợ làm vệ sinh và bóc rác lên xe cùng với sự hỗ trợ của toàn lực lượng Đội quản lý chợ suốt thời gian sau lụt cho đến 30/11/2020. Việc ông T hợp đồng với Đội quản lý chợ nhưng khi ốm đau thuê bà H trực không đúng thời gian quy định nên Đội quản lý chợ đã chấm dứt hợp đồng trước thời hạn, đã trả lương cho ông T đến hết tháng 11/2020. Số tiền 3.500.000 đồng hợp đồng với ông T, bà L nhận thay ông T để trừ vào hợp đồng thuê lại, 2 bà nhận tại đội quản lý chợ đến hết tháng 11/2020. Việc không thanh toán tiền công cho bà L, bà L theo hợp đồng là trách nhiệm của ông Nguyễn Phi T.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi và tranh luận tại phiên tòa;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về Tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L buộc ông Nguyễn Phi T phải thanh toán tiền công thuê làm vệ sinh và bóc rác theo hợp đồng là tranh chấp về hợp đồng dân sự quy định tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự; ông Nguyễn Phi T có địa chỉ cư trú tại Xóm 3, tổ dân phố T, thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình nên Toà án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình thụ lý giải quyết là đúng quy định tại Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và trình bày của các đương sự tại phiên toà, Hội đồng xét xử xác định được nội dung tranh chấp như sau: Ngày 01/3/2020, ông Nguyễn Phi T ký hợp đồng nhận thầu vệ sinh thu gom rác và bóc rác lên xe với Đội quản lý chợ T, thời hạn hợp đồng một năm, giá trị hợp đồng 2.100.000 đồng/tháng và các khoản hỗ trợ thêm ngoài hợp đồng tổng cộng ông T được nhận hàng tháng 3.500.000 đồng, cùng thời điểm đó ông Nguyễn Phi T đã làm hợp đồng thuê lại bà Bùi Thị L và bà Trần Thị L thời hạn cũng một năm, công việc vệ sinh chợ, thu gom rác và bóc rác lên xe, giá trị 6.000.000/tháng, hai bên thỏa thuận: Hàng tháng bà L, bà L nhận tại Đội quản lý chợ 3.500.000 đồng và nhận ở ông T 2.500.000 đồng, đây là hợp đồng dân sự dịch vụ, công việc phải làm và nhận tiền công, hợp đồng quy định theo tháng, không quy định ngày, không loại trừ bất kỳ trường hợp nào. Theo trình bày của ông T vào tháng 10 năm 2020, có 2 đợt lũ lụt, chợ không họp 19 ngày, bà L và bà L không đi làm, ông cũng không thu lệ phí chợ được nên ông không có tiền trang trãi để trả công cho 2 bà. Thực tế sau lụt bà L, bà L đi làm tăng thêm thời gian mới kịp đưa chợ vào hoạt động, vấn đề này được ông Trần Thúc C đội trưởng Đội quản lý chợ tréo xác nhận. Do đó, Hội đồng xét xử thấy số tiền 2.500.000 đồng mỗi tháng nhận tại ông T, bà L và bà L đã nhận đến hết tháng 9 năm 2020 còn tháng 10 và tháng 11 năm 2020 là 5.000.000 đồng (2 người) ông T chưa trả là vi phạm hợp đồng dân sự dịch vụ. Trong số tiền công 2 tháng của 2 người mà ông T chưa trả là 5.000.000 đồng, bà Trần Thị L yêu cầu ông T phải trả phần tiền công của bà là 2.500.000 đồng là có căn cứ cần chấp nhận để buộc ông Nguyễn Phi T có nghĩa vụ trả cho bà L theo hợp đồng là phù hợp với các Điều 513, 514, 515, 516, 517, 518, 519 của Bộ luật dân sự năm 2015.
[3] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.
[4]. Án phí: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Hội đồng xét xử chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp; bị đơn ông Nguyễn Phi T thuộc đối tượng người cao tuổi và có đơn đề nghị miễn án phí nên cần miễn án phí cho ông Nguyễn Phi T là phù hợp với điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 26, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 513, 514, 515, 516, 517, 518, 519 của Bộ luật dân sự năm 2015, xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L, buộc ông Nguyễn Phi T phải có nghĩa trả tiền theo hợp đồng cho bà Trần Thị L là 2.500.000 đồng.
- Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Nguyễn Phi T. Nguyên đơn bà Trần Thị L không phải chịu án phí và được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà bà đã nộp theo biên lai số 0002140 ngày 07/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bà Trần Thị L; ông Nguyễn Phi T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31/8/2021) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử vụ án theo trình tự phúc thẩm.
Bản án 11/2021/DS-ST ngày 31/08/2021 về tranh chấp hợp đồng dân sự dịch vụ
Số hiệu: | 11/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về