Bản án 11/2020/HS-ST ngày 13/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 11/2020/HS-ST NGÀY 13/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 13 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 168/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 168/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Công Duy Th, sinh ngày 21 tháng 10 năm 1997 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ 20, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Trần Công Trí (sinh năm 1971) và bà Nguyễn Thị Bích H (sinh năm 1972).

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 29 tháng 9 năm 2016, bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án số 119/2016/HSST, chấp hành xong ngày 25 tháng 4 năm 2017.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26 tháng 10 năm 2019. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Anh Lê Quang Th, sinh năm 2000; Nơi cư trú: Số 103 đường Nguyễn Giản Thanh, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

2/ Em Trần Tấn Ph, sinh ngày 21 tháng 10 năm 2003; Người đại diện hợp pháp của Trần Tấn Ph: Bà Trần Thị H (mẹ ruột), sinh năm 1976; Cùng trú tại: Số nhà 501 đường Điện Biên Phủ, tổ 31, phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

3/ Anh Huỳnh Phước V, sinh năm 2000; Nơi cư trú: Tổ 32, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

4/ Bà Bùi Thị L, sinh năm 1965; Nơi cư trú: Số 103 đường Nguyễn Giản Thanh, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

5/ Bà Nguyễn Thị Bích H, sinh năm 1972; Nơi cư trú: Tổ 20, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ, ngày 24 tháng 10 năm 2019, Trần Tấn Ph, Lê Quang Th đến thuê phòng 207, khách sạn Hiền Thuận tại số 1277 đường Nguyễn Tất Thành, thành phố Đà Nẵng. Khoảng 19 giờ, ngày 25 tháng 10 năm 2019 thì Ph điện thoại rủ Trần Công Duy Th đến chơi, trên đường đi Th gặp bạn tên Lai (chưa rõ nhân thân lai lịch) tại cây xăng trên đường Kinh Dương Vương, thành phố Đà Nẵng và mượn dụng cụ sử dụng ma túy đá (gồm có chai nỏ và ống hút) của Lai, bên trong vẫn còn một ít ma túy đá, Th đem đến phòng 207 khách sạn Hiền Thuận cất dụng cụ sử dụng ma túy đá trong phòng vệ sinh rồi ngồi chơi được khoảng 15 phút thì đi về. Đến khoảng 23 giờ, Th điều khiển xe mô tô SH mode biển kiểm soát 43E1-331.90 chở Huỳnh Phước V đến phòng 207 khách sạn Hiền Thuận, tại đây Th lấy dụng cụ ra sử dụng ma túy trong nỏ còn lại rồi Th, Ph, V cùng đến sử dụng. Đến khoảng 02 giờ ngày 26 tháng 10 năm 2019, do sử dụng ma túy chưa thỏa mãn nên Th điều khiển xe SH mode, biển kiểm soát 43 E1- 331.90 đi một mình đến bãi biển Xuân Thiều đường Nguyễn Tất Thành (không rõ địa chỉ cụ thể) gặp và mua ma túy của người đàn ông tên Vĩnh (chưa rõ lai lịch) 07 gói ma túy đá với giá là 1.200.000 đồng. Th cất giấu ma túy trong người rồi đi về lại phòng 207 khách sạn Hiền Thuận, lấy một ít ma túy ra sử dụng, số còn lại Th cất giấu trong ví da màu nâu của mình, tại đây Th sử dụng xong thì có Ph, V, Th cùng sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng xong thì cả nhóm đi ngủ, đến 09 giờ sáng ngày hôm sau thì bị lực lượng công an bắt quả tang. Qua thử test nước tiểu thì Th, Th, Ph, V đều dương tính với chất ma túy.

* Tang vật thu giữ:

- Thu giữ trong ví màu nâu ngay trên giường bên cạnh chỗ Th nằm có: 01 gói ni lông kích thước 3x4cm chứa chất tinh thể màu trắng nghi ma túy; 01 gói ni lông kích thước 1,5 x 2 cm chứa chất tinh thể màu trắng nghi ma túy; 01 gói ni lông kích thước 3x5 cm bên trong chứa 05 gói ni lông kích thước 1,5 x 2cm chứa chất tinh thể màu trắng nghi ma túy tất cả được niêm phong; kí hiệu G;

- 01 điện thoại đi động có chữ Iphone, số Imei: 35330073030667 có gắn sim số 0905313110;

- 01 ví da màu nâu; 01 CMND mang tên Trần Công Duy Th;

- Số tiền 2.000.000 đồng;

- 01 chai nhựa có gắn 01 nỏ thủy tinh và 01 ống hút;

- 01 xe mô tô hon đa SH mode màu trắng – nâu, biển kiểm soát: 43E1- 33190;

- 01 xe mô tô Yamaha Exiter, biển kiểm soát: 43G1-285.14;

- 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu vàng, số imei: 53287076959341.

* Bản Kết luận giám định số: 304/GĐ-MT ngày 01 tháng 11 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: “Tinh thể rắn màu trắng trong 07 gói được niêm phong ký hiệu G gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu tinh thể G: 0,775 gam”.

Tại bản cáo trạng số 11/CT- VKS-TK ngày 30 tháng 12 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Trần Công Duy Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Ðiều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê thực hành quyền công tố Nhà nước giữ nguyên toàn bộ nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Ðiều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Công Duy Th từ 24 tháng đến 30 tháng tù giam.

Về hình phạt bổ sung:

Đề nghị áp dụng khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật hình sự: Phạt tiền 2.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng, đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Đà Nẵng là mẫu vật ma túy hoàn lại sau giám định; 01 chai nhựa có gắn 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút, 01 ví da màu nâu.

- Trả cho bị cáo Trần Công Duy Th: 01 điện thoại đi động có chữ Iphone số Imei: 35330073030667 có gắn sim số 0905313110; 01 CMND mang tên Trần Công Duy Th; số tiền 2.000.000 đồng, nhưng cần tiếp tục quy trữ số tiền này để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo Trần Công Duy Th thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã biết sai, bị cáo mong sự khoan hồng của pháp luật để sớm trở về làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra, xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Công Duy Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 26 tháng 10 năm 2019, tại Khách sạn Hiền Thuận (số 1277 Nguyễn Tất Thành, phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) Công an phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang Trần Công Duy Th có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng. Qua giám định, ma túy có khối lượng 0,775 gam, loại Methamphetamine.

Hành vi của Trần Công Duy Th đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 11/CT- VKS-TK ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo có tính chất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền trong việc quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo đủ khả năng nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy đang là tệ nạn của xã hội, là nguyên nhân của các tội phạm khác gây mất an ninh trật tự, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nhưng bị cáo vẫn phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 29 tháng 9 năm 2016, bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án số 119/2016/HSST, chấp hành xong ngày 25 tháng 4 năm 2017 (đã được xóa án tích) nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội.

Do vậy, cần phải xét xử nghiêm, hình phạt đối với bị cáo phải thỏa đáng và tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo để bị cáo có điều kiện cải tạo tu dưỡng để trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần được áp dụng cho bị cáo.

Từ những phân tích trên, xét lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê về tội danh là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với: Mẫu vật hoàn trả sau giám định được bỏ trong 01 (một) bì niêm phong số 304/GĐ-MT ngày 01 tháng 11 năm 2019, có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Đà Nẵng là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; 01 chai nhựa có gắn 01 nỏ thủy tinh và 01 ống hút; 01 ví da màu nâu là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với: 01 điện thoại đi động có chữ Iphone màu hồng, số Imei: 35330073030667 có gắn sim số 0905313110; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Công Duy Th; số tiền 2.000.000 đồng đều là tài sản của Trần Công Duy Th, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 xe mô tô Honda SH mode màu trắng – nâu, biển kiểm soát: 43E1-33190 do bà Nguyễn Thị Bích H là chủ sở hữu. Vào ngày 25 tháng 10 năm 2019, bà H cho con ruột của mình là Trần Công Duy Th mượn xe trên làm phương tiện đi lại và không biết việc Th sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên ngày 24 tháng 12 năm 2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả xe mô tô nêu trên cho bà H, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.

- Đối với 01 xe mô tô Yamaha Exiter, biển kiểm soát: 43G1-285.14, do bà Bùi Thị L đứng tên chủ sở hữu. Vào ngày 24 tháng 10 năm 2019, bà L cho con ruột của mình là Lê Quang Th mượn làm phương tiện đi lại và không biết mục đích sử dụng xe của Th nên ngày 24 tháng 12 năm 2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả xe mô tô nêu trên cho bà L, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.

- Đối với 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu vàng, số imei: 53287076959341 là của Lê Quang Th, không liên quan đến tội phạm nên ngày 24 tháng 12 năm 2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả lại cho Th, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.

[6] Đối với đối tượng tên Vĩnh là người đã bán ma túy và đối tượng tên Lai là người cho Th mượn dụng cụ sử dụng ma túy đều không rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.

Đối với Huỳnh Phước V, Trần Tấn Ph, Lê Quang Th đã có hành vi sử dụng ma túy cùng Th, tuy nhiên việc Th đi mua ma túy đem về phòng 207 khách sạn Hiền Thuận cất giấu để sử dụng thì V, Ph, Th không góp tiền mua đồng thời không biết việc Th cất giấu ma túy nên không đủ cơ sở xử lý hình sự. Do đó, Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đối với Huỳnh Phước V, Trần Tấn Ph, Lê Quang Th, Trần Công Duy Th là có cơ sở.

[7] Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Ðiều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Công Duy Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Công Duy Th 21 (hai mƣơi mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26 tháng 10 năm 2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật hoàn trả sau giám định được bỏ trong 01 (một) bì niêm phong số 304/GĐ-MT ngày 01 tháng 11 năm 2019, có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Đà Nẵng; 01 chai nhựa có gắn 01 nỏ thủy tinh; 01 ống hút và 01 ví da màu nâu.

- Trả cho bị cáo Trần Công Duy Th: 01 điện thoại đi động có chữ Iphone màu hồng, số Imei: 35330073030667, gắn sim số 0905313110; 01 chứng minh nhân dân mang tên Trần Công Duy Th; số tiền 2.000.000 đồng, tuy nhiên cần tiếp tục quy trữ số tiền này để đảm bảo thi hành án.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03 tháng 01 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Thanh Khê và Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê; Biên lai thu tiền số 007289 ngày 03 tháng 01 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê).

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về việc “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án” của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Trần Công Duy Th phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2020/HS-ST ngày 13/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:11/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;