Bản án 11/2020/HS-ST ngày 10/02/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 11/2020/HS-ST NGÀY 10/02/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 10 tháng 02 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 157/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2020/HSST-QĐ ngày 14 tháng 01 năm 2020, Thông báo về việc mở lại phiên tòa xét xử số 12/2020/TB-TA ngày 30 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị H (tên gọi khác: N đen, N khàn) – sinh năm: 1995, tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Khu 3, thị trấn TP, huyện TP, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Nhân viên phục vụ quán karaoke; Trình độ văn hóa: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: V Nam; Con ông Nguyễn Văn Đ – 1960 và bà Phạm Thị Ngọc L – 1964; Chồng: Ngô Công Tr – 1992 (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2015; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị tạm giam từ ngày 27/6/2019. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Mai Quốc V – 1994. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp 3, xã ĐH, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước.

- Người làm chứng:

+ Phạm Thành A – 1990. (vắng mặt)

+ Phạm Thanh B – 1991. (vắng mặt)

+ Nguyễn Tiến Th – 1993. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp 3, xã ĐL, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

+ Bùi Văn T – 1992. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp 3, xã ĐH, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước.

+ Lê Thị Mỹ D – 2000. (vắng mặt)

+ Lê Thị Mỹ Tr1 – 1991. (vắng mặt)

+ Phùng Ngọc Tr3 – 1999. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp 2, xã TC, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

+ Trần Ngọc T1 – 1987. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp TT, xã PX, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

+ Nguyễn Đắc L1 – 1989. (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp NL 2, xã PT, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị H là nhân viên phục vụ quán karaoke DM thuộc ấp NL 2, xã PT, huyện Tân Phú do anh Nguyễn Đắc L1 là người quản lý. Vào tháng 4/2018, H có phục vụ bia cho một người khách đến hát karaoke tên là L2 (không rõ nhân thân, lai lịch), trong lúc nói chuyện thì L2 có nói với H là L2 có bán ma túy “khay”, đồng thời cho H số điện thoại và nói nếu khách có nhu cầu sử dụng thì gọi điện thoại cho L2 thì H đồng ý.

Khoảng 23 giờ, tháng 5/2018 (không nhớ rõ ngày), Mai Quốc V đến quán karaoke DM để hát, đồng thời yêu cầu H phục vụ bia. Tại đây V hỏi mua từ H 01 “chấm” ma túy “khay” với giá 1.300.000đ, H đồng ý và gọi điện thoại cho L2 mang ma túy đến. V đưa cho H số tiền 1.300.000đ, khoảng 15 phút sau H xuống dưới sân của quán để lấy ma túy và đưa số tiền 1.300.000đ cho một người thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) đem lên phòng hát karaoke đưa cho V và cùng nhau sử dụng ma túy cùng với tiếng nhạc sôi động (gọi là bay). Sau đó V đưa thêm cho H số tiền 500.000đ (gọi là tiền bo).

Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 18/12/2018, Mai Quốc V cùng với Bùi Văn T, Nguyễn Tiến Th, Phạm Thanh B, Phạm Thành A đến quán karaoke DM để hát và được Trần Ngọc T1 là nhân viên phục vụ bố trí ở phòng Vip 8 cùng với 4 tiếp viên nữ gồm có Nguyễn Thị H, Phùng Ngọc Tr3, Lê Thị Mỹ Tr1, Lê Thị Mỹ D. Đến 00h ngày 19/12/2018, V gọi H ra ngoài phòng hát và hỏi mua 01 “chấm” ma túy “khay” giá 1.300.000đ, H đồng ý và gọi điện thoại cho L2 để báo có người mua ma túy và được L2 hẹn khoảng 20 phút sau sẽ mang ma túy đến. Như đã hẹn, khi mang ma túy đến quán karaoke thì L2 điện thoại báo cho H biết. H nói với V và cùng V đi xuống sân quán để lấy ma túy, lúc H đi vào nhà vệ sinh thì V đi ra sân quán đưa số tiền 1.300.000đ cho một người thanh niên trên mặt đeo khẩu trang (không biết là ai) và lấy 01 gói ma túy “khay”. Đến khoảng 01 giờ sáng cùng ngày do wifi phòng Vip 8 bị hỏng nên tất cả mọi người chuyển đến phòng Vip 1, lúc này V lấy ma túy ra để cả nhóm sử dụng chung cùng với tiếng nhạc sôi động, gọi là “bay”.

Cách thức sử dụng ma túy: Ma túy được đổ ra đĩa sứ, sau đó dùng miếng nhựa chia số ma túy trên đĩa thành nhiều hàng và dùng tờ tiền mệnh giá 2000đ cuốn thành ống cố định hai đầu bằng vỏ đầu lọc điếu thuốc lá để làm dụng cụ hít ma túy vào mũi, người nào không hít vào mũi thì hòa vào nước ngọt để uống. Đến khoảng 04 giờ cùng ngày, nhóm của V tính tiền để nghỉ, V đưa cho H số tiền 500.000đ thì bị lực lượng công an bắt quả tang cùng tang vật. Qua kiểm tra 09 đối tượng có mặt tại phòng đều dương tính với chất ma túy.

Vật chứng thu giữ:

- Thu giữ trên bàn, trong phòng hát: 01 đĩa sứ màu trắng để dựng ma túy; 01 đoạn ống được quấn bằng tờ tiền giấy có mệnh giá 2000đ và cố định bằng vỏ đầu lọc thuốc lá; 01 bịch lylong hở 01 đầu có kích thước 3x5cm, bên trong không có gì.

- Thu giữ của Nguyễn Thị H: 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3S màu xanh đen, số tiền 500.000đ.

Kết quả giám định: Kết luận giám định số 70/PC09-GĐMT ngày 28/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai Kết luận: Mẫu chất bột màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,0009gam loại: Ketaminne.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Thị H đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình theo đúng nội dung vụ án nêu trên.

Bản cáo trạng số 01/CT-VKSTP-ĐN ngày 06/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Nguyễn Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú giữ quyền công tố luận tội và tranh luận; phân tích dấu hiệu phạm tội; đánh giá các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đặc điểm nhân thân của bị cáo. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề xuất mức án đối với bị cáo Nguyễn Thị H từ 07 năm đến 08 năm tù.

Về xử lý vật chứng:

Đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy 01 đĩa sứ màu trắng để dựng ma túy; 01 đoạn ống được quấn bằng tờ tiền giấy có mệnh giá 2000đ và cố định bằng vỏ đầu lọc thuốc lá; 01 bịch lylong hở 01 đầu có kích thước 3x5cm, bên trong không có gì.

- Tịch thu sung công 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3S màu xanh đen, số tiền 500.000đ.

Bị cáo có lời nói sau cùng như sau: Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái và ăn năn hối cải. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị H đã thành khẩn khai nhận tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ tháng 05/2018 đến ngày 18/12/2018 tại quán karaoke DM thuộc xã PT, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai do anh Nguyễn Đắc L1 làm quản lý. Nguyễn Thị H có hành vi giúp đối tượng tên L2 (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) bán trái phép chất ma túy cho Mai Quốc V 02 lần để V sử dụng, lần thứ nhất vào tháng 05/2018 (không xác định được ngày), lần thứ 02 vào ngày 19/12/2018 thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi do bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, nó trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về chất ma túy, trực tiếp là hoạt động mua bán các chất ma túy. Bị cáo thực hiện hành vi trên với lỗi cố ý. Bản thân bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Do đó bị cáo Nguyễn Thị H đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, với tình tiết định khung hình phạt là “phạm tội 02 lần trở lên”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3]. Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Trong tình hình hiện nay, ma túy đang trở thành vấn nạn của xã hội. Tình trạng mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy đang diễn ra rất phức tạp, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, an toàn xã hội, gây tác hại rất lớn đến sức khỏe nòi giống, nhân cách con người, gây thiệt hại về kinh tế của gia đình cũng như xã hội. Ma túy là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của các nhóm tội phạm khác.

[4]. Xét vai trò của bị cáo trong vụ án: Bị cáo H khai báo giúp cho đối tượng tên L2 bán ma túy, tuy nhiên không điều tra xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng tên L2. Mặt khác, Mai Quốc V chỉ trực tiếp đặt vấn đề mua ma túy với bị cáo H. Do đó xác định Nguyễn Thị H phải chịu toàn bộ trách nhiệm về hành vi mua bán trái phép ma túy cho V.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đang nuôi con nhỏ (sinh năm 2015) là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7]. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

[8]. Về hình phạt chính: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[9]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[10]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 đĩa sứ màu trắng để dựng ma túy; 01 đoạn ống được quấn bằng tờ tiền giấy có mệnh giá 2000đ và cố định bằng vỏ đầu lọc thuốc lá; 01 bịch lylong hở 01 đầu có kích thước 3x5cm, bên trong không có gì. Xét vật chứng trên là công cụ dùng vào việc phạm tội, vật cấm tàng trữ. Căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3S màu xanh đen, số tiền 500.000đ. Xét vật chứng trên có liên quan đến việc phạm tội và tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội. Căn cứ vào quy định tại các điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[11]. Về các vấn đề khác: Đối với đối tượng tên L2 bán ma túy cho Mai Quốc V hiện chưa xác minh được nhân thân, lai lịch. Đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật.

[12]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[13]. Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

- Điểm a, b khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị H 07 (bảy) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 27 tháng 6 năm 2019.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 đĩa sứ màu trắng để dựng ma túy; 01 đoạn ống được quấn bằng tờ tiền giấy có mệnh giá 2000đ và cố định bằng vỏ đầu lọc thuốc lá; 01 bịch lylong hở 01 đầu có kích thước 3x5cm, bên trong không có gì.

- Tịch thu sung công 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3S màu xanh đen, số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).

(Các vật chứng theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09/12/2019; Số tiền theo biên lai thu tiền số 0003449 ngày 09/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai)

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2020/HS-ST ngày 10/02/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:11/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;