Bản án 11/2020/HS-ST ngày 08/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOA LƯ, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 11/2020/HS-ST NGÀY 08/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2020/HSST ngày 25/3/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2020/QĐXXST-HS ngày 23/4/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trịnh Văn N (tên gọi khác: không) sinh năm: 1969 tại huyện Y Nam Định; giới tính: Nam; nơi ĐKNKTT và trú tại: thôn H, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/10; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Trịnh Văn T, con bà Trịnh Thị L (đã chết); vợ Dương Thị S, sinh năm 1966; con: có 2 con; con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1998. Tiền án Không.

Tiền sự: Ngày 21/11/2016, Trịnh Văn N bị Tòa án nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng (theo Quyết định số 18/2016/QĐ-TA). Ngày 14/4/2019, bị cáo chấp hành xong.

- Lịch sử bản thân: Ngày 07/5/2016, Trịnh Văn N bị Công an phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình xử phạt hành chính số tiền 750.000đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/12/2019 đến ngày 31/12/2019, chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình đến nay; có mặt.

*Người làm chứng: anh Hà Văn B và anh Lê Đức N; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trịnh Văn N sinh năm 1969, trú tại thôn H, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 14giờ 30phút ngày 28/12/2019, Trịnh Văn N đi xe máy biển kiểm soát 18D1 - 481.87 từ nhà đến khu vực cầu Mới tỉnh Nam Định tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây N gặp một người đàn ông không quen biết khoảng 30 tuổi mặc áo khoác màu đen, quần bò, đi giầy thể thao màu đen, đi xe máy màu trắng (N không nhớ cụ thể loại xe và biển kiểm soát) hỏi N: “Đi mua ma túy à? ”, N trả lời: “ Vâng, có biết chỗ nào bán không? ”, người đàn ông nói: “ tôi biết khu vực Tràng An có ch bán giá 200.000 đồng một gói, có đi không? ”, N trả lời: “Có”, người kia nói: “đi theo tôi”. N điều khiển xe máy đi theo anh ta. Khoảng 16 giờ 00 phút, hai người đi đến khu vực bãi để xe bến thuyền Tràng An ở thôn Khê Thượng, xã Ninh Xuân, huyện Hoa Lư. Người đàn ông bảo N đưa 200.000 đồng để mua ma túy. N móc trong túi hông áo vest đang mặc ra 200.000đồng đưa cho người đàn ông, người này cầm tiền và bảo N vào quán nước ngồi đợi rồi đi xe máy khoảng 15 phút sau đó quay lại quán nước đưa cho N 01 gói nhỏ, biết là Heroine nên N cầm gói nhỏ trong lòng bàn tay trái, quay ra lấy xe đi về. Khi N ra gần đến chỗ để xe thì bị tổ công tác Công an huyện Hoa Lư phối hợp với Công an xã Ninh Xuân đang làm nhiệm vụ yêu cầu kiểm tra, N tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói nhỏ bên ngoài bọc bằng tờ giấy bạc nhỏ màu vàng, mở ra kiểm tra bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, N khai nhận là Heroine vừa mua về để sử dụng. Tổ công tác đã thu giữ gói ma túy trên, niêm phong theo đúng quy định, đưa N cùng tang vật và mời người làm chứng về trụ sở Công an huyện Hoa Lư để lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hoa Lư tiến hành cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng trong gói nhỏ giữ của Trịnh Văn N, đánh ký hiệu M1 và niêm phong gửi trưng cầu giám định.

Tại bản kết luận giám định số: 38/KLGĐ - PC09 - MT ngày 31/12/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

Mu chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu M1 có khối lượng 0,2297 gam là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, s thứ tự 9 Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm của bản thân.

Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKSHL ngày 24/3/2020, Viện Kiểm sát nhân huyện Hoa Lư truy tố bị cáo Trịnh Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ của vụ án, hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Trịnh Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Trịnh Văn N từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 28/12/2019.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 0,1548 gam ma túy loại Heroine thu giữ của Trịnh Văn N và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong hoàn lại sau khi gửi đi giám định;

- 01 phong bì niêm phong bên trong có mảnh giấy bạc màu vàng và vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hoa Lư, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoa Lư, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp lời khai người làm chứng; bản kết luận giám định; vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Hành vi tàng trữ: 0,2297 gam ma túy, loại Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân ngày 28/12/2019 của Trịnh Văn N đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng viện kiểm sát nhân dân huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình truy tố bị cáo với tội danh và khung hình phạt nêu trên là đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, không những vi phạm vào chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi chất ma tuý, mà còn là một trong các nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh, lây lan tệ nạn nghiện ma tuý vốn đang là một vấn nạn nhức nhối của toàn xã hội. Mặc dù nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, song vì muốn thỏa mãn ý thích cá nhân bị cáo vẫn cố tình thực hiện dẫn đến phạm tội. Do đó, cần buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự và cần áp dụng hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Như vậy, mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo từ bỏ ma túy, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[3] Về nhân thân - tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo có nhân thân xấu.

- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội; khi bị kiểm tra đã tự giác giao nộp số ma túy; Mẹ bị cáo được tặng thưởng bằng khen vì có thành tích tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s khoản lvà khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích vụ lợi, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ:

Cần tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 0,1548 gam ma túy loại Heroine thu giữ của Trịnh Văn N và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong hoàn lại sau khi gửi đi giám định;

- 01 phong bì niêm phong bên trong có mảnh giấy bạc màu vàng và vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 18D1 - 481.87. Quá trình điều tra đã xác định chiếc xe máy trên là của anh Trịnh Dương H, sinh năm 1998 là con trai của Trịnh Văn N. Hoàng để xe ở nhà, N tự lấy xe đi mua ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hoa Lư đã trả lại chiếc xe trên cho Trịnh Dương H là có căn cứ và đúng pháp luật.

[6] Về nguồn gốc số ma tuý: Quá trình điều tra N khai nhận mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực bãi đỗ xe bến thuyền Tràng An nên không có đủ căn cứ để xác minh, làm rõ.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Trịnh Văn N 16(Mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 28/12/2019.

2. Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 0, 1548 gam ma túy loại Heroine thu giữ của Trịnh Văn N và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong hoàn lại sau khi gửi đi giám định;

- 01 phong bì niêm phong bên trong có mảnh giấy bạc màu vàng và vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an huyện Hoa Lư và Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoa Lư lập ngày 25/3/2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Buộc Trịnh Văn N phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000(Hai trăm nghìn) đồng. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án (08/5/2020).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự ; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2020/HS-ST ngày 08/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:11/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoa Lư - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;