Bản án 11/2020/HNGĐ-ST ngày 02/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH 

BẢN ÁN 11/2020/HNGĐ-ST NGÀY 02/06/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 02 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 37/2020/TLST-HNGĐ ngày 13/02/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/5/2020; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, địa chỉ: Đội 2, thôn V, xã P, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn Duy T1, địa chỉ: Đội 1, thôn U, xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 12/02/2020, bản tự khai ngày 03/3/2020 cũng như tại phiên toà, nguyên đơn chị Trần Thị T đều trình bày: Chị và anh T1 trước đây yêu nhau và kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 25/6/2015. Sau kết hôn, vợ chồng sống chung cùng gia đình bố mẹ anh T1 tại thôn U, xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được thời gian ngắn đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T1 ham chơi, không chú tâm làm ăn xây dựng gia đình mà thường xuyên theo bạn bè đi chơi qua đêm không về nhà, vợ chồng có tài sản gì cũng đem đi cầm cố lấy tiền tiêu riêng cho bản thân nên vợ chồng thường hay cải vã, gây gổ nhau làm cho cuộc sống của chị bất an lo lắng, từ đó, chị không thể tiếp tục chung sống với anh T1 nữa và đã về sống cùng bố mẹ đẻ từ tháng 3 năm 2018 cho đến nay, không ai quan tâm gì đến ai nữa. Hiện tại chị T xác định tình cảm giữa chị và anh T1 thực sự đã hết và yêu cầu được ly hôn.

Bị đơn anh Lê Văn Duy T1 vắng mặt tại phiên tòa cũng như các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được tống đạt hợp lệ. Song qua đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 05/5/2020, anh T1 trình bày: Anh đã nhận được các thông báo, quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập phiên tòa của Tòa án nhưng vì công việc bận rộn nên anh không thể tham gia phiên tòa được. Vì vậy, anh xin được vắng mặt trong các buổi làm việc và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh trong các phiên tòa xét xử của Tòa án các cấp. Về nội dung, anh T1 đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Con chung: Chị T trình bày chị và anh T1 có hai con chung: Lê Văn Trần Đức B, sinh ngày 12/11/2015 và Lê Văn Đức P, sinh ngày 24/10/2017. Từ khi vợ chồng ly thân đến nay, Lê Văn Trần Đức B ở với anh T1, Lê Văn Đức P ở với chị T. Nguyện vọng của anh T1 ghi trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt xin được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con Lê Văn Trần Đức B. Chị T có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con Lê Văn Đức P, không ai cấp dưỡng nuôi con cho ai.

Về tài sản chung: Không có.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, kết quả hỏi và tranh luận tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn anh Lê Văn Duy T1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng anh T1 có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị T và anh Lê Văn Duy T1 đăng ký kết hôn với nhau ngày 25/6/2015 tại UBND xã L, huyện L, tỉnh Quảng Bình là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng gia đình bố mẹ anh T1, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc chỉ được thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hợp nhau nên thường xuyên xảy ra bất hòa. Anh T1 ham chơi theo bạn bè, không chú tâm làm ăn, chăm lo xây dựng hạnh phúc gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải vã, gây gổ nhau làm cho tình cảm vợ chồng mất mát. Chị T cũng như gia đình, bạn bè hai bên đã nhiều lần vận động, góp ý và mong rằng anh T1 thay đổi nhưng không có kết quả nên chị đã sống ly thân từ tháng 3/2018 cho đến nay, không ai quan tâm gì đến ai nữa. Anh T1 đã được Tòa án thông báo các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần, kể cả giấy triệu tập phiên tòa được tống đạt hợp lệ nhưng anh T1 vẫn không có mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Qua đó, chứng tỏ anh T1 không quan tâm bảo vệ hạnh phúc gia đình và không tha thiết hàn gắn tình cảm với chị T nữa. Chị T thì xác định tình cảm vợ chồng thực sự đã hết và yêu cầu được ly hôn anh T1.

Xét thấy, tình trạng vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho hai bên ly hôn nhau là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị T, anh T1 có hai con chung: Ly hôn anh T1 yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con đầu, chị T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con thứ hai, không ai cấp dưỡng nuôi con cho ai. Hội đồng xét xử thấy nguyện vọng của hai bên đều chính đáng và phù hợp với pháp luật nên cần chấp nhận để xử giao cho mỗi bên nuôi một con là có căn cứ, phù hợp với các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3].Tài sản chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4].Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử cho chị Trần Thị T và anh Lê Văn Duy T1 được ly hôn nhau.

2.Về con chung: Áp dụng các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử giao con Lê Văn Trần Đức B, sinh ngày 12/11/2015 cho anh Lê Văn Duy T1 được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; giao con Lê Văn Đức P, sinh ngày 24/10/2017 cho chị Trần Thị T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai. Anh T1, chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo biên lai số: 0005971 ngày 12/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ. Chị T đã nộp đủ án phí.

Chị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 02/6/2020, anh T1 được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2020/HNGĐ-ST ngày 02/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:11/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;