Bản án 11/2020/DS-ST ngày 09/09/2020 về tranh chấp hụi

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN Ô MÔN –THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 11/2020/DS-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Trong ngày 09 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 29/2020/TLST-DS ngày 03 tháng 02 năm 2020 về việc “Tranh chấp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2020/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2020/QĐST-DS ngày 24 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Ngô Thị Hồng Th, sinh năm 1952. (có mặt) Địa chỉ: Khu vực G, phường C, quận M, thành phố Cần Thơ.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Bé H, sinh năm 1972. (vắng mặt) Địa chỉ: Khu vực G, phường C, quận M, thành phố Cần Thơ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Lê Hồng D, sinh năm 1968. (vắng mặt)

2/ Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1971. (có đơn xin vắng mặt)

3/ Bà Nguyễn Thị Hồng L1, sinh năm 1980. (có đơn xin vắng mặt)

4/ Bà Nguyễn Kim T, sinh năm 1989. (có đơn xin vắng mặt)

5/ Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1953. (có đơn xin vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Khu vực G, phường C, quận M, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn bà Ngô Thị Hồng Th trình bày:

Bà và bà Nguyễn Thị Bé H, ông Lê Hồng D có quen biết cùng xóm nên bà có tham gia chơi hụi do bà Bé H làm chủ hụi, gồm các chân hụi:

- Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 30/9/2017 (âm lịch) gồm có 17 phần, bà tham gia 02 phần, góp được 15 lần với số tiền 15.000.000 đồng x 02 phần = 30.000.000 đồng.

- Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 20/12/2017 (âm lịch) gồm có 17 phần, bà tham gia 02 phần, góp được 12 lần với số tiền 12.000.000 đồng x 02 phần = 24.000.000 đồng.

- Hụi 1.000.000đồng/tháng, khui ngày 05/7/2018 (âm lịch), không nhớ rõ bao nhiêu phần, bà tham gia 03 phần, góp được 05 lần với số tiền 5.000.000 đồng x 03 phần = 15.000.000 đồng.

Tng cộng BÀ H và ông D còn thiếu bà số tiền hụi là 69.000.000 đồng. Sau đó, BÀ H tuyên bố bể hụi và không trả tiền lại cho bà, bà đã nhiều lần yêu cầu nhưng BÀ H và ông D hứa hẹn nhiều lần và kéo dài đến nay vẫn không trả.

* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 25/02/2020, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Lê Hồng D trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị Bé H là vợ chồng, cùng đăng ký hộ khẩu thường trú tại khu vực 12, phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ. BÀ H có làm chủ hụi khoảng 10 năm nay, đến khoảng tháng 9 năm 2019 thì bể hụi. Do kinh tế gia đình quá khó khăn không có khả năng trả tiền hụi cho các hụi viên nên đến tháng 10/2019, ông và BÀ H đi đến tỉnh Bình Dương tìm việc làm.

Khi bà Bé H làm chủ hụi, bà Ngô Thị Hồng Th có tham gia chơi hụi nhưng ông không biết bà Th tham gia bao nhiêu chân hụi. Ông thừa nhận BÀ H có nợ tiền hụi của bà Th nhưng hiện nay ông chưa xác định được số tiền hụi BÀ H nợ bà Th là bao nhiêu. Do bận đi làm nên BÀ H không đến Tòa án được, ông và BÀ H sẽ tính toán lại sổ hụi để xác định số tiền hụi còn nợ bà Th.

Mặc dù việc tổ chức hụi là do BÀ H tự làm, ông không có tham gia nhưng do là vợ chồng nên ông đồng ý cùng BÀ H chịu trách nhiệm trả lại cho bà Th số tiền hụi thực tế bà Th đã đóng, yêu cầu bà Th không tính tiền lãi.

* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 22/7/2020, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà Nguyễn Thị L trình bày:

Bà và bà Ngô Thị Hồng Th có quen biết nhau vì cùng chơi hụi do bà Nguyễn Thị Bé H làm chủ hụi. Bà và bà Th có tham gia chung 03 dây hụi do bà Bé H làm chủ hụi gồm:

- Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 30/9/2017 (âm lịch), gồm có 17 phần. Bà tham gia 03 phần, còn bà Th thì tham gia 02 phần. Phần hụi này bà đã góp được 45.000.000 đồng, bà Th đã góp được 30.000.000 đồng.

- Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 20/12/2017 (âm lịch), gồm có 17 phần. Bà tham gia 01 phần, còn bà Th thì tham gia 02 phần. Phần hụi này bà đã góp được 13.000.000 đồng, bà Th đã góp được 24.000.000 đồng.

- Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 05/7/2018 (âm lịch), gồm có 16 phần. Bà tham gia 02 phần, còn bà Th thì tham gia 03 phần. Bà đã góp được 12.000.000 đồng, còn bà Th đã góp được bao nhiêu tiền thì bà không biết.

Bà và Th chưa hốt 03 dây hụi trên, do bể hụi nên BÀ H chưa giao tiền hụi cho bà và bà Th. Bà không có yêu cầu gì trong vụ án này. Đồng thời, do bận công việc nên bà yêu cầu được vắng mặt tại các phiên hòa giải, công khai chứng cứ và xét xử vụ án này.

* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 22/7/2020, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà Nguyễn Thị Hồng L1 trình bày:

Bà và bà Ngô Thị Hồng Th có quen biết nhau vì cùng chơi hụi do bà Nguyễn Thị Bé H làm chủ hụi. Bà và bà Th có tham gia chung 02 dây hụi do bà Bé H làm chủ hụi gồm:

- Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 30/9/2017 (âm lịch), gồm có 17 phần. Bà tham gia 02 phần, bà Th cũng tham gia 02 phần. Số tiền bà Th đã góp là 30.000.000 đồng.

- Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 20/12/2017 (âm lịch), gồm có 17 phần. Bà tham gia 02 phần, còn bà Th thì tham gia 02 phần. Số tiền bà Th đã góp là 24.000.000 đồng.

Các dây hụi trên bà đã hốt xong còn bà Th thì chưa hốt hụi. BÀ H đã giao tiền hụi cho bà xong, sau đó thì bể hụi nên BÀ H chưa giao tiền hụi cho bà Th. Bà không có yêu cầu gì trong vụ án này. Đồng thời, do bận công việc nên bà yêu cầu được vắng mặt tại các phiên hòa giải, công khai chứng cứ và xét xử vụ án này.

* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 22/7/2020, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà Nguyễn Kim T trình bày:

Bà và bà Ngô Thị Hồng Th có quen biết nhau vì cùng chơi hụi do bà Nguyễn Thị Bé H làm chủ hụi. Bà và bà Th có tham gia chung 02 dây hụi do bà Bé H làm chủ hụi gồm:

- Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 20/12/2017 (âm lịch), gồm có 17 phần. Phần hụi này bà đã hốt xong nên bà không nhớ bà tham gia mấy phần hụi. Bà cũng không nhớ bà Th đã tham gia mấy phần hụi nhưng bà biết bà Th chưa hốt hụi này, số tiền hụi BÀ H nợ bà Th bao nhiêu bà cũng không biết.

- Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 05/7/2018 (âm lịch), gồm có 16 phần. Bà tham gia 01 phần, còn bà Th thì tham gia 03 phần. Phần hụi này bà đã đóng được 5.000.000 đồng, bà Th đã đóng là 15.000.000 đồng. Do bể hụi nên bà Bé H chưa giao tiền hụi cho bà và bà Th.

Bà không có yêu cầu gì trong vụ án này. Đồng thời, do bận công việc nên bà yêu cầu được vắng mặt tại các phiên hòa giải, công khai chứng cứ và xét xử vụ án này.

* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 22/7/2020, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà Nguyễn Thị B trình bày:

Bà và bà Ngô Thị Hồng Th có quen biết nhau vì cùng chơi hụi do bà Nguyễn Thị Bé H làm chủ hụi. Bà và bà Th cùng chơi chung 01 dây hụi 1.000.000 đồng/tháng khui ngày 20/12/2017 (âm lịch), gồm có 17 hụi viên. Dây hụi này bà tham gia 01 phần, bà đã đóng được 12 lần số tiền 12.000.000 đồng, bà chưa hốt hụi. Bà không nhớ bà Th đã tham gia mấy phần hụi nhưng bà biết bà Th chưa hốt hụi này, số tiền hụi BÀ H nợ bà Th bao nhiêu bà cũng không biết.

Bà không có yêu cầu gì trong vụ án này. Đồng thời, do bận công việc nên bà yêu cầu được vắng mặt tại các phiên hòa giải, công khai chứng cứ và xét xử vụ án này.

Ti phiên tòa, - Nguyên đơn bà Ngô Thị Hồng Th thay đổi yêu cầu khởi kiện, bà Th yêu cầu bà Nguyễn Thị Bé H và ông Lê Hồng D cùng chịu trách nhiệm trả cho bà số tiền hụi là 60.225.000 đồng (Sáu mươi triệu, hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng).

- Bị đơn bà Nguyễn Thị Bé H vắng mặt không có lý do.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Hồng D vắng mặt không có lý do; bà Nguyễn Thị L, bà Nguyễn Thị Hồng L1, bà Nguyễn Kim T và bà Nguyễn Thị B có đơn xin vắng mặt.

- Kiểm sát viên phát biểu quan điểm:

+ Về tố tụng: Tòa án thụ lý vụ án, xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hụi”, xác định tư cách đương sự và tiến hành thu thập chứng cứ đúng quy định.

+ Về nội dung: Qua xem xét các tài liệu chứng cứ và diễn biến tại phiên tòa, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 471 Bộ luật dân sự chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Th, ông D, bà L, bà L1, bà T và bà B cùng xác định BÀ H có làm chủ hụi, quá trình làm hụi có phát sinh tranh chấp nên bà Th khởi kiện, do đó, quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp hụi”. Đây là tranh chấp dân sự giữa cá nhân với cá nhân, được pháp luật dân sự điều chỉnh và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Khoản 3 Điều 26 và Điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Nguyễn Thị Bé H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Hồng D đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không có lý do; bà Nguyễn Thị L, bà Nguyễn Thị Hồng L1, bà Nguyễn Kim T và bà Nguyễn Thị B có đơn xin vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án:

Từ năm 2017 đến năm 2018, BÀ H có làm chủ hụi nhiều dây hụi, bà Th có tham gia chơi 03 dây hụi, cụ thể:

- Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 30/9/2017 (âm lịch), gồm có 16 phần, hụi viên gồm có bà Th, bà L, bà L1 và một số người khác không rõ họ tên và địa chỉ. Bà Th tham gia 02 phần và đã góp được 15 lần; bà L đã góp được 45.000.000 đồng. Bà L1 đã hốt hụi xong, còn bà Th và bà L chưa hốt hụi. Dây hụi này đã mãn, bà Th hốt chót 02 phần hụi này sẽ được số tiền 30.000.000 đồng.

- Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 20/12/2017 (âm lịch), gồm có 17 phần, hụi viên gồm có bà Th, bà L, bà L1, bà T, bà B và một số người khác không rõ họ tên và địa chỉ. Bà Th tham gia 02 phần và đã góp được 12 lần/phần, trung bình mỗi lần góp khoảng 775.000 đồng/phần, tổng số tiền bà Th đã góp cho 02 phần hụi là 18.600.000 đồng; bà L đã góp 13.000.000 đồng; bà B đã góp 12.000.000 đồng. Bà L1 và bà T đã hốt hụi xong; còn bà Th, bà L và bà B chưa hốt hụi.

- Hụi 1.000.000 đồng/tháng, khui ngày 05/7/2018 (âm lịch), gồm có 16 phần, hụi viên gồm có bà Th, bà L, bà T và một số người khác không rõ họ tên và địa chỉ. Bà Th tham gia 03 phần và đã góp được 05 lần/phần, trung bình mỗi lần góp khoảng 775.000 đồng/phần, tổng số tiền bà Th đã góp cho 03 phần hụi là 11.625.000 đồng, bà L đã góp 12.000.000 đồng, bà T đã góp 5.000.000 đồng. Bà Th, bà L và bà T đều chưa hốt hụi.

Nay bà Th khởi kiện yêu cầu BÀ H, ông D trả tổng số tiền hụi là 60.225.000 đồng. Bà L, bà L1, bà T và bà B không có yêu cầu trong vụ án này.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Theo đơn khởi kiện, bà Th yêu cầu BÀ H, ông D trả cho bà số tiền 69.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bà Th có thay đổi yêu cầu khởi kiện, bà Th chỉ yêu cầu BÀ H, ông D trả số tiền hụi là 60.225.000 đồng. Theo quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự, đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, có quyền chấm dứt hoặc thay đổi yêu cầu của mình. Xét thấy, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không vượt quá phạm vi đơn khởi kiện ban đầu nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện, bà Th có cung cấp 03 tờ giấy hụi viết tay thể hiện 03 dây hụi ngày 30/9/2017, ngày 20/12/2017 và ngày 05/7/2017 (cùng tính theo ngày âm lịch). Tại phiên tòa, bà Th cho rằng đây là các giấy hụi do BÀ H tự ghi và đưa cho bà và các hụi viên. Bà chỉ biết bà có chơi hụi cùng với bà L, bà L1, bà T và bà B, còn lại tên của những người khác trong giấy hụi thì bà không biết. Trong quá trình tham gia hụi, BÀ H không cho các hụi viên biết cụ thể những ai đã hốt hụi, do tin tưởng nên bà vẫn góp hụi đầy đủ cho BÀ H, đến khi bể hụi thì bà mới biết có một số dây hụi mặc dù đã mãn nhưng vẫn còn nhiều người chưa được hốt hụi.

Bà L, bà L1, bà T và bà B thừa nhận các dây hụi trên là có thật. Ông D thừa nhận việc BÀ H có nợ tiền hụi của bà Th nhưng không xác định được cụ thể bao nhiêu tiền. Do BÀ H và ông D đã vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và không đưa ra ý kiến phản bác đối với các chứng cứ và yêu cầu khởi kiện của bà Th nên Hội đồng xét xử xem xét đối chiếu lời khai của các đương sự cùng với các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, từ đó đã có cơ sở để xác định tổng số tiền hụi BÀ H còn nợ bà Th đối với 03 dây hụi ngày 30/9/2017, ngày 20/12/2017 và ngày 05/7/2018 (ngày âm lịch) là 60.225.000 đồng.

Đi với ông D là chồng của BÀ H, mặc dù không trực tiếp tổ chức các dây hụi trên nhưng theo bà Th thì ông D là người thu tiền hụi của bà góp cho BÀ H; đồng thời, ông D cũng tự nguyện cùng BÀ H trả số tiền hụi mà BÀ H còn nợ bà Th. Do đó, cần buộc ông D liên đới chịu trách nhiệm cùng BÀ H trả cho bà Th số tiền 60.225.000 đồng là phù hợp quy định điều 27 Luật Hôn nhân gia đình.

Đi với bà Nguyễn Thị L, bà Nguyễn Thị Hồng L1, bà Nguyễn Kim T và bà Nguyễn Thị B có tham gia một số dây hụi cùng với bà Th nhưng các đương sự không có yêu cầu gì trong vụ án này. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Từ những phân tích và đánh giá nêu trên cho thấy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Th được chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện nên ông D, BÀ H phải chịu án phí theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016. Bà Th được nhận lại toàn bộ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào :

- Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 357, Điều 468 và Điều 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Hồng Th đối với bà Nguyễn Thị Bé H và ông Lê Hồng D.

Buộc bà Nguyễn Thị Bé H và ông Lê Hồng D liên đới chịu trách nhiệm trả cho bà Ngô Thị Hồng Th số tiền 60.225.000 đồng (Sáu mươi triệu, hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thi hành thì phải trả tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả với mức lãi suất được quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

2/ Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Nguyễn Thị Bé H và ông Lê Hồng D phải nộp số tiền 3.011.000 đồng (Ba triệu không trăm mười một nghìn đồng).

- Bà Ngô Thị Hồng Th được nhận lại số tiền 1.725.000 đồng (Một triệu bảy trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 010783 ngày 20/01/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt được quyền kháng cáo. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2020/DS-ST ngày 09/09/2020 về tranh chấp hụi

Số hiệu:11/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;