Bản án 11/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 11/2019/HS-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Mở phiên tòa ngày 24 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2019/QĐXXST-HS, ngày 10 tháng 4 năm 2019 đối với:

Bị cáo Vũ Văn T, sinh năm 1992; Đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: Thôn N, xã V, huyện T, TP Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Tiền án, tiền sự: Không; Là con ông Vũ Đức H và bà Trần Thị L; Vợ là Vi Hồng V, đã có 02 con, lớn 3 tuổi, nhỏ 1 tuổi; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ 13/12/2018 đến ngày 21/12/2018 được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Cáo trạng của VKSND và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 12/12/2018, Vũ Văn T đi xe bus từ nhà ở xã V, huyện T xuống thị trấn P, huyện P tìm đến nhà L phong thủy (do L có cửa hàng bán đồ phong thủy) để mua ma túy. Thấy L đang ngồi bán hàng, T hỏi: “ Anh còn đồ bán không”, L hỏi lại: “ Lấy bao nhiêu” thì T đưa cho L 1.000.000đ. L cầm tiền đi vào trong buồng một lát thì đi ra đưa cho T 01 gói nilon bên trong có chứa chất bột màu trắng. Biết là ma túy, T không kiểm tra mà đút vào túi áo rồi quay ra bắt xe về nhà sau đó có bỏ gói ma túy ra sử dụng một ít.

Đến khoảng 14h00 ngày 13/12/2018, T gọi điện cho Lương Thị H ở thôn V, xã Đ, huyện P là chố bạn bè thân thiết hỏi vay tiền đóng học cho con thì H đồng ý và hẹn gặp nhau ở phòng 202 nhà nghỉ Sao Đêm thuộc thôn T, xã Đ. Khi H đến phòng 202, thấy T đang sử dụng ma túy, H cầm hút được một hai hơi thì T không cho sử dụng tiếp. Cả hai ngồi nói chuyện thì bị tổ công tác Công an huyện P vào kiểm tra, khám xét thu giữ trong túi áo khoác của T 01 gói nilon bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá nên đã lập biên bản thu giữ, niêm phong gửi đi giám định và đưa cả hai về trụ sở làm việc.

Tại bản Kết luận giám định số 9413 ngày 19/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong các gói nilon thu giữ của Thành là ma túy loại Methaphetamine ( Ma túy đá ) có khối lượng là 2,031gram.

Tại cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 27/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Xuyên truy tố bị cáo Vũ Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phú Xuyên giữ nguyên quan điểm về tội danh, điều luật áp dụng theo nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Vũ Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thụ hình được trừ 09 ngày tạm giữ; Đề nghị tịch thu tiêu huỷ vật chứng của vụ án, đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đồng thời buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Xuyên, của Điều tra viên và Kiểm sát viên cùng những người tiến hành tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan và của người tiến hành tố tụng...do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:

Xét lời khai của bị cáo tại phiên, phù hợp với nội dung kết luận của cơ quan điều tra, Cáo trạng của Viện kiểm sát, phù hợp lời khai của chính bị cáo trong quá trình điều tra cũng như phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ như: Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, Sơ đồ hiện trường, Biên bản niêm phong vật chứng, Kết luận giám định...có đủ căn cứ để khẳng định: Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 13/12/2018, tại phòng 202 nhà nghỉ Sao Đêm thuộc khu vực thôn T, xã Đ, Công an huyện Phú Xuyên đã bắt quả tang Vũ Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép trên người 2,031gram ma túy loại Methaphetamine ( Ma túy đá ) mục đích để sử dụng cho bản thân.

Với hành vi và chứng cứ nêu trên, việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Xuyên truy tố bị cáo Vũ Văn T ra trước Tòa để xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng pháp luật. Tội danh và hình phạt quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an địa phương... khiến dư luận bất bình, đòi hỏi phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự với một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất nguy hiểm trong hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đồng thời cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục bị cáo nhận thức sâu sắc về tội lỗi của mình mà ăn năn hối cải về sau và cũng là để làm gương cho những người khác.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Khi quyết định hình phạt, đã cân nhắc đến việc quá trình tố tụng bị cáo thành khẩn khai báo, tại phiên tòa có thái độ ăn năn hỗi cải là tình tiết quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự mà giảm nhẹ một phần hình phạt để chứng tỏ sự nhân đạo của Pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung và các vấn đề liên quan khác:

Do hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, động cơ mục đích của việc phạm tội không nhằm trục lợi nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung bằng phạt tiền đối với bị cáo.

Đi với Nguyễn Văn L (biệt hiệu là L Phong Thủy), theo T khai là kẻ đã bán ma túy cho T, cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nhà của L nhưng không thu giữ được gì; qua đấu tranh, đối chất... Nguyễn Văn L không thừa nhận việc bán ma túy cho T; ngoài lời khai của T, cơ quan điều tra chưa thu thập được chứng cứ nào khác chứng minh L chính là kẻ đã bán ma túy cho T... cơ quan điều tra, VKSND chưa đề cập xử lý nên không xét.

Đi với Lương Thị H có hành vi cùng T sử dụng trái phép chất ma túy, qua điều tra xác minh, xác định việc H sử dụng ma túy là tự nguyện, không bị T rủ rê, lôi kéo hay tổ chức sử dụng ma túy nên cơ quan điều tra, VKSND không đề cập xử lý trách nhiệm hình sự là có cơ sở.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Vũ Văn T và giám định viên, bên trong chứa ma túy loại Methaphetamine có trọng lượng 2,031gram là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a Khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt, bị cáo Vũ Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử: Phạt bị cáo Vũ Văn T 18 ( Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thụ hình được trừ 09 ngày tạm giữ.

3. Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Tch thu để tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong, mặt trước có hình dấu vuông, bên trong có ghi Công an Thành phố Hà Nội, đơn vị Công an huyện Phú Xuyên, tên đối tượng Vũ Văn T ngày niêm phong 13/12/2018; mặt sau phong bì có chữ ký của Vũ Văn T và giám định viên, bên trong có chứa 2,031 gam Methaphetamine theo kết luận giám định số 9413/KLGĐ-PC09 ngày 19/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội là vật cấm tàng trữ, lưu hành.

Tang vật hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.

4. Áp dụng Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vũ Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:11/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;