Bản án 11/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 11/2019/HS-ST NGÀY 12/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên xétxử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2019/TLST-HS ngày 26 tháng02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần H, sinh năm 1986 tại Đồng Nai. Nơi cư trú: Số 193/28, Tổ 18, ấp A, xã H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H1 và bà Nguyễn Thị T, vợ tên Nguyễn Hồng Phương T1, có 02 người con sinh năm 2013 và năm 2017; tiền án: Không, tiền sự: Ngày 17 tháng 4 năm 2018, Công an xã H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Chưa chấp hành) và Quyết định số 181/QĐ-UB ngày 21 tháng 5 năm 2018 của Ủy ban nhân dân xã H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 03 tháng (Chấp hành xong ngày 21/8/2018); Nhân thân: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03 tháng 12 năm 2018 cho đến nay, có mặt.

Bị hại: Ông Trần Hoàng Đ, sinh năm 1993. Nơi cư trú: Ấp 3, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Huỳnh Hữu T2, sinh năm 2000. Nơi cư trú: Ấp V, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Ông Lê Võ Hoàng T3, sinh năm 2000. Nơi cư trú: Ấp G, xã L, huyện B, tỉnhBình Dương; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

3. Bà Huỳnh Thị T4, sinh năm 1972. Nơi cư trú: Ấp V, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

4. Bà Lê Thị Mỹ L, sinh năm 1960. Nơi cư trú: Ấp L, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

5. Ông Nguyễn Kim V, sinh năm 1972. Nơi cư trú: Phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Dương Văn L1, sinh năm 1979. Nơi cư trú: Khu phố 1, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương; có đơn xin giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần H và Lê M quen biết nhau ngoài xã hội. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 03/12/2018, H và M rủ nhau đi tìm tài sản trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. H điều khiển xe môtô biển số 60Z8-0552 chở M đi từ thành phố B, tỉnh Đồng Nai qua huyện B, tỉnh Bình Dương. Khi đến Ấp 3, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương phát hiện xe môtô biển số 61H5-8658 của ông Trần Hoàng Đ để ở trước sân nhà, cắm sẵn chìa khóa, không người trông coi. H dừng xe đứng ngoài đường còn M đi bộ vào sân nhà ông Đ mở khóa nổ máy xe điều khiển bỏ chạy. H điều khiển xe môtô biển số 60Z8-0552 chạy trước còn M điều khiển xe môtô biển số 61H5-8658 chạy sau hướng về bến đò B thuộc Ấp 5, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương. Ông Đ đang ngủ ở trong nhà, nghe tiếng xe máy nổ, chạy ra phát hiện xe bị lấy trộm nên điều khiển xe môtô đuổi theo và báo Công an xã T.

Công an xã T truy đuổi và thông báo Công an xã T chốt chặn trước Ủy ban nhân dân xã Tân M. Thấy H, M chạy qua, ông Huỳnh Hữu T2 và Lê Võ Hoàng T3 điều khiển xe môtô biển số 61N1-096.21 đuổi theo. Đến khu vực B thuộc ấp V, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương, M tự lao xe vào thùng rác bên đường té ngã bị chấn thương nằm tại chỗ còn H tiếp tục điều khiển xe bỏ chạy hướng thị xã T, tỉnh Bình Dương. Ông T2 và T3 tiếp tục đuổi theo H đến Khu phố 5, phường U, thị xã T thì ông T2, T3 bị H lạng lách ép xe qua phần đường dành cho xe chạy chiều ngược lại, xe môtô ông T2 điều khiển va chạm với xe môtô biển số 72C1-493.72 do Bùi Thanh T5 điều khiển đi chiều ngược lại làm hai xe ngã. H không làm chủ tốc độ, lao xe vào xe môtô của một người đi đường không rõ nhân thân lai lịch làm hai xe ngã xuống, H bỏ lại xe chạy bộ thì bị người dân bắt giữ.

Ngày 19/01/2019, Công an thị xã Tân Uyên đã giao xe môtô biển số 61N1- 096.21 và xe môtô biển số 60Z8-0552 cho Công an huyện Bắc Tân Uyên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 241/KLHĐ-ĐGTS ngày 06/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Bắc Tân Uyên xác định: 01 xe môtô nhãn hiệu Wave, màu xanh, biển số 61H5-8658, số khung: Y018587, số máy: 0018628 trị giá 5.000.000 đồng.

Chi phí sửa chữa xe môtô biển số 61H5-8658 là 1.890.000 đồng.

Ngày 12/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, tạm giam Trần H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Bản Cáo trạng số 16/CT-VKSBTU ngày 26 tháng 02 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố Trần H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần H từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: 01 xe môtô nhãn hiệu Wave, màu xanh, biển số 61H5- 8658, số khung: Y018587, số máy: 0018628 bị hại đã nhận lại. Xe môtô biển số 61H5- 8658 bị hư hỏng, chi phí sửa chữa số tiền 1.890.000 đồng, đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo bồi thường cho bị hại.

Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

01 xe môtô nhãn hiệu Wave, màu xanh, biển số 61H5-8658, số khung: Y018587, số máy: 0018628 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển số 61H5-8658, số 0022- 791, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã trả cho ông Đ. 

01 xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại: Winner, màu xanh trắng, biển số 61N1- 096.21, số khung: 2601GY105631, số máy: KC26E1143056; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển số 61N1-096.21, số 010-380. Ngày 19/01/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã trả cho ông T2.

01 xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại: Future X, màu đỏ đen trắng, biển số 60Z8- 0552, số khung: RLHJC3503AY420313, số máy: JC35E-3240280 của bà Lê Thị Mỹ L bị chiếm đoạt tại xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai tiếp tục xử lý.

Bị cáo thống nhất kết luận định giá và nội dung bản cáo trạng truy tố, nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

 [2] Tại phiên tòa, bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng có đơn xin giải quyết vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt.

 [3] Về nội dung vụ án: Trần H và Lê M quen biết nhau ngoài xã hội. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 03/12/2018, H và M rủ nhau đi tìm tài sản trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. H điều khiển xe môtô biển số 60Z8-0552 chở M đi từ thành phố B, tỉnh Đồng Nai qua huyện B, tỉnh Bình Dương. Khi đến Ấp 3, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương phát hiện xe môtô biển số 61H5-8658 của ông Trần Hoàng Đ để ở trước sân nhà, cắm sẵn chìa khóa, không người trông coi. Trần H và đồng phạm lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của ông Trần Hoàng Đ, đã lén lút chiếm đoạt chiếc xe môtô biển số 61H5-8658. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 241/KLHĐ-ĐGTS ngày 06/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Bắc Tân Uyên xác định 01 xe môtô nhãn hiệu Wave, màu xanh, biển số 61H5-8658, số khung: Y018587, số máy: 0018628 trị giá 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố bị cáo Trần H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

 [4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, vì động cơ tư lợi mà thực hiện tội phạm. Bị cáo có nhân thân xấu, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bỏ chạy, gây nguy hiểm cho những người tham gia giao thông và những người truy đuổi bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức án nghiêm, cách ly xã hội một thời gian nhằm trừng trị, răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

 [5] Xét vai trò của các bị cáo: Vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo và đồng phạm là những người thực hành.

 [6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

 [7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

 [8] Hành vi của Lê M phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do Lê M đang bị chấn thương cột sống ngực, di chứng liệt hai chi dưới, loét tỳ đè vùng mông, chấn thương sọ não, xuất huyết dưới nhện chưa lấy được lời khai, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên ra quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can, tách vụ án xử lý sau là phù hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 229 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

 [9] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt là 01 xe môtô nhãn hiệu Wave, màu xanh, biển số 61H5-8658, số khung: Y018587, số máy: 0018628 đã trả lại cho bị hại. Xe môtô biển số 61H5-8658 bị hư hỏng, phải sửa chữa số tiền 1.890.000 đồng, cần buộc bị cáo bồi thường cho bị hại.

 [10] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

 [11] 01 xe môtô nhãn hiệu Wave, màu xanh, biển số 61H5-8658, số khung:Y018587, số máy: 0018628 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển số 61H5- 8658, số 0022-791; 01 xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại: Winner, màu xanh trắng, biển số 61N1-096.21, số khung: 2601GY105631, số máy: KC26E1143056 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe môtô biển số 61N1-096.21, số 010-380, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.

 [12] 01 xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại: Future X, màu đỏ đen trắng, biển số 60Z8-0552, số khung: RLHJC3503AY420313, số máy: JC35E-3240280 của bà Lê Thị Mỹ L bị chiếm đoạt vào ngày 02/12/2018 tại xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Đồng Nai tiếp tục xử lý là phù hợp quy định pháp luật.

 [13] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về hình phạt đối với bị cáo và trách nhiệm dân sự là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [14] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173 và các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và các Điều 584, Điều 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh và hình phạt:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần H 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03 tháng 12 năm 2018.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Trần H bồi thường cho ông Trần Hoàng Đ số tiền 1.890.000 đồng (Một triệu tám trăm chín mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịukhoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí sơ thẩm:

Bị cáo Trần H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:11/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;