Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 13/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN E, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 11/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 13/6/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện E xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 201/2018/TLST-HNGĐ ngày 17/12/2018 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXX-ST ngày 13/5/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị A – Sinh năm 1987

Địa chỉ: Làng C, xã D, huyện E, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Anh Hà Quang B - Sinh năm 1985

Địa chỉ: Làng C, xã D, huyện E, tỉnh Thanh hóa.

Tại phiên tòa vắng mặt chị A có lý do, vắng mặt anh B không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện vụ án ly hôn ngày 18/9/2018 và bản tự khai nguyên đơn chị Trương Thị A trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Hà Quang B tìm hiểu yêu nhau và lấy nhau từ năm 2007. Và đi đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện tại UBND xã D, huyện E, tỉnh Thanh Hóa ngày 22/5/2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hòa thuận với nhau được thời gian ngắn khoảng 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân của mâu thuẫn là trong cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung, quan điểm và tính cách sống không hòa hợp với nhau, vợ chồng cãi cọ nhau, thậm chí có những lần anh B còn đánh đập chị, dẫn đến tình cảm vợ chồng lạnh nhạt dần. Nay chị xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng giữa chị và anh B không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh B được ly hôn.

Về con chung: Chị và anh B có 01 con chung cháu Hà Anh F – sinh ngày 11/11/2008. Ly hôn, chị xin được nuôi con và chị không yêu cầu anh B cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Hà Quang B: Tòa án tiến hành các thủ tục tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Hà Quang B, thông báo cho anh B ngày, giờ đến Tòa án để lấy lời khai, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án, hiện anh B đang có hộ khẩu Fờng trú và sinh sống tại địa phương nhưng anh B không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập, nên Tòa án không lấy được lời khai của anh B, không hòa giải được vụ án và tại phiên tòa anh B cũng vắng mặt không có lý do.

Tại biên bản thu thập chứng cứ tại nơi cư trú – Trưởng làng C, xã D cung cấp như sau: Anh Hà Quang B và chị Trương Thị A kết hôn với nhau vào năm 2014, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã D, huyện E vào ngày 22/5/2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với gia đình nhà nội ở làng C, xã D, huyện E. Quá trình vợ chồng chung sống anh chị có xảy ra mâu thuẫn như thế nào địa phương không nắm được, anh chị cũng không báo cáo với chính quyền địa phương. Nay chị A có đơn xin ly hôn, quan điểm của địa phương: Đề nghị căn cứ theo pháp luật giải quyết. Về con chung: Anh chị có 01 con chung. Nếu trường hợp anh chị phải ly hôn, thì đề nghị Tòa án căn cứ vào thực tế để quyết định giao con cho ai nuôi đảm bảo được điều kiện về học tập, sinh hoạt của cháu.

Về tài sản, công nợ chung: Địa phương không nắm được.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Tất cả các giai đoạn từ khi thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa được thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTDS năm 2015. Nguyên đơn thực hiện theo đúng quyền và nghĩa vụ, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình quy định của BLTTDS năm 2015. Đề nghị HĐXX xem xét, đánh giá chứng cứ trên cơ sở quy định của pháp luật để đưa ra quyết định đúng đắn, chính xác, khách quan nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về hôn nhân: Xử cho chị A và anh B được ly hôn.

- Về con chung: Giao cháu Hà Anh F cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng. chị A tự nguyện không yêu cầu anh B cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay chị Trương Thị A đã được triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vắng mặt có lý do, chị A đã có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Hà Quang B đã được triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vắng mặt không có lý do, nên căn cứ khoản 1, 2 điều 227 BLTTDS năm 2015 Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị Trương Thị A và anh Hà Quang B.

[2] Về hôn nhân: Anh Hà Quang B và chị Trương Thị A kết hôn với nhau từ năm 2014, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp.

Chị A cho rằng Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng quan điểm và tính cách sống không hợp nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống; do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên hiện nay vợ chồng sống ly thân nhau, không ai quan tâm và có trách nhiệm đến ai. Đối với anh B, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần và tại phiên tòa hôm nay anh B vẫn vắng mặt không có lý do, điều này thể hiện anh B có thái độ bỏ mặc và không có thiện chí đoàn tụ cùng chị A. Nay chị A yêu cầu được ly hôn anh B.

Xét tình cảm của anh chị thực tế không còn, mâu thuẫn không có khả năng hàn gắn được, điều này chứng tỏ mâu thuẫn của anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận đơn khởi kiện của chị Trương Thị A. Xử cho Trương Thị A được ly hôn với anh Hà Quang B là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Anh B, chị A có 01 con chung: Cháu Hà Anh F – sinh ngày 11/11/2008. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị A có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu F và không yêu cầu anh B cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị; Hiện nay cháu F đang ở cùng với chị và gia đình nhà ngoại; ngoài ra do anh thường xuyên vắng mặt tại gia đình, nên việc giao con cho anh B không đảm bảo được điều kiện về mọi mặt của cháu. Như vậy việc giao cháu F cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, anh B không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung là phù hợp với thực tế, nguyện vọng của cháu và đảm bảo được điều kiện về mọi mặt của cháu. Sau này anh B có nguyện vọng nuôi con thì anh sẽ yêu cầu bằng một vụ kiện dân sự khác.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên miễn xét.

[5] Về án phí: Chị A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1, 2 Điều 227, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Trương Thị A được ly hôn với anh Hà Quang B.

2. Về con chung: Anh B, chị A có 01 con chung: cháu Hà Anh F – sinh ngày 11/11/2008. Giao cháu F cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, anh B không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh B có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản, công nợ chung: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Fờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chị Trương Thị A phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nép 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0002063 ngày 14/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện E, Chị A đã nộp đủ tiền án phí DSST.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Chị A, anh B vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc ngày niêm yết) bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 13/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:11/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Định - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;