TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÔN ĐẢO, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
BẢN ÁN 11/2018/HSST NGÀY 12/10/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 12-10-2018, tại Nhà Văn hóa Khu dân cư số 3, huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lưu động sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2018/TL-HSST ngày 31-8-2018; đối với bị cáo:
Phạm Văn T, sinh năm: 1991; (Tên gọi khác: Không), tại A; HKTT: Khu dân cư số B, huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 05/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; con ông Phạm Văn T (Đã chết) và bà Hồ Thị L, sinh năm: 1970; vợ Huỳnh Thị Kim H, sinh năm 1997, bị cáo có 01 người con sinh năm 2015; Bị cáo là con thứ hai trong gia đình có 03 chị em.
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo hiện đang bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt).
Bị hại: Chị Huỳnh Thị Kim T, sinh năm 1987;
HKTT: ấp Trần T, xã Phú M, huyện Giang T, tỉnh K;
Địa chỉ: Khu dân cư số B, huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Có mặt);
Người làm chứng:
- Chị Huỳnh Thị Kim H, sinh năm 1997; địa chỉ: Khu dân cư số B, huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Có mặt);
- Chị Trần Ngọc Á, sinh năm 1984; địa chỉ: Khu dân cư số B, huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Có mặt);
- Bà Trần Thị Đ, sinh năm 1965; địa chỉ: Khu dân cư số B, huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Vắng mặt).
- Chị Ngô Thị Thu T, sinh năm: 1995; địa chỉ: Khu dân cư số B, huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Vắng mặt).
- Chị Hàn Ngọc B, sinh năm: 1979; địa chỉ: Khu dân cư số B, huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Vắng mặt có lý do).
- Ông Vương Văn T, sinh năm 1966; địa chỉ: Khu dân cư số B, huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 12-3-2018, Phạm Văn T đến khu nhà trọ của Ngô Thị Thu T, trú tại: Khu B, huyện Côn Đảo để chơi. Sau đó, chị Huỳnh Thị Kim H là vợ của T đến tiệm làm tóc Châu My trú tại: Khu B, huyện Côn Đảo, đối diện diện với phòng trọ của T để làm tóc thì thấy T đang nằm trên võng ở trước phòng trọ của T, H đi lại nói chuyện với T nên giữa hai bên xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau, T đã túm cổ áo H dọa đánh rồi buông ra, H bỏ đi và tiếp tục chửi T nên T dùng chiếc dép để ném H nhưng không trúng. Sau đó, H đã gọi điện thoại cho chị gái là Huỳnh Thị Kim T để kể lại sự việc và nhờ chị T đến giúp, sau đó T đã nhờ chồng của mình là Trần Ngọc Á, chở T bằng xe máy để đi ra gặp T nói chuyện. Khi đến nơi, chị T nhìn thấy T ngồi trên xe máy trước cửa phòng trọ của T, chị T mới đi bộ lại chỗ T và cầm mũ bảo hiểm đánh T nhưng Tuấn quơ tay làm rớt mũ bảo hiểm xuống đất, chị Tý tiếp tục cầm chiếc guốc định lao vào đánh Tuấn, thấy vậy Á cũng xông vào ôm T nhưng Tuấn vùng được và chạy thoát ra ngoài nhặt miếng gạch men bị vỡ dưới gốc cây ném chị T nhưng không trúng, chị T lao vào nhà định đánh Thảo nên Tuấn chạy lại gần cửa nhà của Thảo nhìn thấy con dao bằng kim loại, màu: đen, đã dỉ sét, dài 44cm, bề rộng nhất 6,5cm được để dưới đất gần bình ga, trong gầm bàn phía bên hông cửa, Tuấn cầm dao bằng tay phải chém qua lại và chém một nhát trúng vào vùng đầu phía sau của chị Huỳnh Thị Kim T gây thương tích. Sau đó, Tuấn vào nhà của Thảo đóng cửa lại, còn chị T đã đến Công an huyện Côn Đảo để trình báo vụ việc và đến Trung tâm Quân Dân y huyện Côn Đảo để khâu vết thương.
Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, Phạm Văn T đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Côn Đảo để trình diện và giao nộp 01 con dao bằng kim loại, màu: đen, đã dỉ sét, dài 44cm, bề rộng nhất 6,5cm, là hung khí Tuấn đã sử dụng để gây thương tích cho chị Huỳnh Thị Kim T. Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Côn Đảo, Phạm Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 81/TgT ngày 22-3- 2018 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là: 01% (một phần trăm).
Ngày 12-3-2018, bị hại là chị Huỳnh Thị Kim T đã có đơn yêu cầu giám định tỷ lệ thương tích và xử lý hình sự đối với Phạm Văn T.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra bị cáo Phạm Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với các lời khai, chứng cứ của các cơ quan điều tra đã thu thập được.
Bản cáo trạng số 12/CT-VKSND-CĐ ngày 30-8-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố tại phiên tòa đã phát biểu lời luận tội, phân tích hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra, cũng như đặc điểm nhân thân của bị cáo. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích. Mặt khác, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội Cố ý gây thương tích. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ, tuyên về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng.
Bị cáo Phạm Văn T không tranh luận gì thêm chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị hại không tranh luận gì thêm chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý hành vi của bị cáo đã gây theo đúng quy định pháp luật
Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay, bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại do thương tích Tuấn gây ra gồm các khoản: Tiền tổn thất tinh thần 65.000.000đ, tiền chi phí điều trị, thuốc men, chi phí đi lại 9.205.000đ, tiền mất thu nhập hàng ngày 60.000.000đ. Tổng cộng 134.205.000đ (Một trăm ba mươi tư triệu hai trăm lẻ năm ngàn đồng).
Tại phiên tòa ngày hôm nay, bi cáo trình bày tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền là 10.000.000đ (Mười triệu đồng).
Căn cứ vào những chứng cứ và những tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Côn Đảo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Côn Đảo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Xét lời khai của bị cáo Phạm Văn T tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; phù hợp với lời khai của người làm chứng tại phiên tòa ngày hôm nay: Theo đó, đã có đủ căn cứ để kết luận:
Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 12-3-2018, tại khu nhà trọ của chị Ngô Thị Thu Th, thuộc Khu dân cư số B, huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Bị cáo Phạm Văn T đã có hành vi dùng một con dao bằng kim loại, màu: đen, đã dỉ, sét, dài 44cm, rộng 6,5cm chém một nhát trúng vào vùng đầu phía sau của chị Huỳnh Thị Kim T gây thương tích với tỷ lệ tại thời điểm giám định (22-3-2018) 1% (Một phần trăm). Ngày 12-3-2018, chị Huỳnh Thị Kim T đã có đơn yêu cầu giám định tỷ lệ thương tích và xử lý hình sự đối với bị cáo Phạm Văn T. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Côn Đảo truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an ở địa phương, làm hoang mang lo lắng trong một bộ phận nhân dân. Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà bị cáo đã có hành vi dung một con dao bằng kim loại, màu: đen, đã dỉ, sét, dài 44cm, rộng 6,5cm để gây thương tích cho người bị hại với tỷ lệ thương tật là 1%, con dao này được coi là hung khí nguy hiểm theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 mục 3 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 và điểm c tiểu mục 2.2 mục 2 phần I Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, cần phải có hình phạt tương xứng nhằm răn đe, giáo dục bị cáo.
[3] Về nhân thân, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; ngoài tình tiết định khung hình phạt bị cáo không có tình tiết tăng nặng khác theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại phiên tòa bị cáo có thiện chí tự nguyện bồi thường tiền điều trị vết thương cho người bị hại nên cần cân nhắc giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình, không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 36 của Bộ luật hình sự.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Đối với yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự của người bị hại: Sau khi xem xét các hóa đơn chứng từ, tài liệu bị hại nộp, các biên bản xác minh của cơ quan điều tra (Bút lục: 115 - 118), đồng thời xem xét công việc thực tế mà bị hại đang kinh doanh cũng như mặt bằng thu nhập đối với công việc đó trên địa bàn huyện Côn Đảo thì chỉ có cơ sở đồng ý chấp nhận yêu cầu bồi thường các khoản: Tiền mất thu nhập của bị hại: 300.000đ/1 ngày x 15 ngày = 4.500.000đ. Tiền tổn thất về tinh thần tính bằng 13 tháng lương tối thiểu 16.900.000đ. Tiền chi phí đi lại, điều trị là 7.375.000đ. Tổng cộng là 28.775.000đ (Hai mươi tám triệu, bảy trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).
[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) con dao bằng kim loại, màu: đen, đã dỉ, sét, dài 44cm, rộng 6,5cm, được cuốn giấy màu trắng bên ngoài, dán lại, bên trên có chữ ký của ông Phùng Văn Chính, Nguyễn Đình Tuyển, bà Phạm Thị Mai và “Phạm Văn Tuấn”, được đóng dấu mộc đỏ của Khu dân cư số 9, Ủy ban nhân dân huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bị cáo làm công cụ để đánh bị hại hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Côn Đảo không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[7] Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.
[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo theo luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn tính từ ngày có Quyết định thi hành hình phạt này.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân huyện Côn Đảo giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt.
Áp dụng Điều 47 của Bộ Luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao bằng kim loại, màu: đen, đã dỉ, sét, dài 44cm, rộng 6,5cm, được cuốn giấy màu trắng bên ngoài, dán lại, bên trên có chữ ký của ông Phùng Văn Chính, Nguyễn Đình Tuyển, bà Phạm Thị Mai và “Phạm Văn Tuấn”, được đóng dấu mộc đỏ của Khu dân cư số 9, Ủy ban nhân dân huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Vật chứng trên đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Côn Đảo; theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 11/BB/18 ngày 31-8-2018; giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Côn Đảo và Công an huyện Côn Đảo.
[3 trách nhiệm dân sự Áp dụng Điều 590 của Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Phạm Văn Tuấn phải bồi thường cho bị hại Huỳnh Thị Kim Tý số tiền 28.775.000đ (Hai mươi tám triệu, bảy trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).
“Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015”.
[4] án phí: Bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.438.000đ (Một triệu bốn trăm ba mười tám nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án (12-10-2018) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh BR-VT xét xử thúc thẩm.
“Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 11/2018/HSST ngày 12/10/2018 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 11/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Côn Đảo - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/10/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về