TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 11/2018/DSST NGÀY 30/08/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 41/2019/TLST-DS, ngày 24/5/2019 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2019/QĐXXST-DS ngày 15/7/2019, giữa các đương sự:
1-Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N- sinh năm 1957; nơi cư trú: Khu 03 T, xã C, huyện C, tỉnh Phú Thọ. Có mặt.
2-Bị đơn: Anh Đỗ Đức K- sinh năm 1983; nơi cư trú: Khu 08 Đ, xã C, huyện C, tỉnh Phú Thọ. Có mặt.
3-Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
3.1- Ông Nguyễn Khắc T - sinh năm: 1952 (Chồng bà Nguyễn Thị N); nơi cư trú: Khu 03 T, xã C, huyện C, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt nhưng có đề nghị xét xử vắng mặt.
3.2- Chị Trần Lệ Giang Q - sinh năm 1990 (Vợ anh Đỗ Đức K); nơi cư trú: Khu 08 Đ, xã C, huyện C, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt nhưng có đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 08/5/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà chị Nguyễn Thị N trình bày: Ngày 01/8/2018 anh Đỗ Đức K có đến hỏi vay của vợ chồng bà số tiền 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng) để đáo hạn ngân hàng, bà không đồng ý, nhưng sau đó anh K nói là bán cho bà chiếc xe ô tô nhãn hiệu CX-5, biển kiểm soát 19A-20127 với số tiền 300.000.000đ thì bà nhất trí, anh K viết giấy bán xe và bà đã đưa tiền cho anh K nhưng sau đó anh K không giao xe ô tô như thỏa thuận. Nay bà N yêu cầu Tòa án buộc anh K phải trả cho vợ chồng bà 300.000.000đồng tiền gốc và tiền lãi phát sinh từ ngày 01/8/2018 cho đến 08/5/2019, theo lãi suất 10,5%/ 1 năm x 280 ngày = 24.164.383đồng tiền lãi, như vậy tổng cả tiền gốc và tiền lãi là 324.164.383đồng.
Bị đơn là anh Đỗ Đức K trình bày: Trước ngày 01/8/2018 vợ chồng anh có vay nợ của bà N số tiền 300.000.000 đồng, mục đích để lấy vốn kinh doanh. Bà N nói là không trả nợ được cho bà thì viết cho bà giấy bán xe ô tô, do anh vẫn còn nợ tiền bà N nên anh đồng ý viết giấy bán xe chứ không phải anh muốn bán xe cho bà N như bà N trình bày. Trong quá trình vay, anh đã trả cho bà N 160.00.000đ tiền lãi ( Lãi xuất 3.000đ/ ngày/ 1 triệu, 10 ngày trả lãi 1 lần nhưng anh không có chứng cứ chứng minh). Do kinh doanh thua lỗ nên anh chưa trả nợ cho bà N được. Nay bà N yêu cầu trả số tiền gốc và lãi xuất như trên thì anh đề nghị để vợ chồng anh được trả dần cho bà N là 4.000.000đồng/ tháng, mỗi tháng 1 lần cho đến khi trả nợ xong.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn Khắc T (Chồng bà N) trình bày: Thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của nguyên đơn.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là chị Trần Lệ Giang Q (Vợ anh Đỗ Đức K) trình bày: Chồng chị là anh Đỗ Đức K đứng ra vay của bà Nguyễn Thị N 300.000.000đồng. Mục đích vay để vợ chồng làm vốn chăn nuôi, phát triển kinh tế gia đình. Do kinh doanh thua lỗ nên vợ chồng chị chưa trả được nợ cho bà N. Nay bà N yêu cầu trả số tiền gốc và lãi như trên thì chị nhất trí nhưng đề nghị để vợ chồng chị trả dần cho bà N 4.000.000đồng/tháng cho đến khi trả nợ xong cả gốc và lãi.
Tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị N chỉ yêu cầu vợ chồng anh Đỗ Đức K, chị Trần Lệ Giang Q phải trả nợ gốc là 300.000.000đồng và tiền lãi theo mức lãi suất là 10%/1 năm, tính từ ngày 01/8/2018 đến ngày 08/5/2019.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ và toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Tranh chấp giữa các đương sự là “Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản”. Nơi cư trú của bị đơn và nơi thực hiện hợp đồng đều là tại xã C, huyện C, tỉnh Phú Thọ. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê thụ lý giải quyết vụ án là đúng quy định tại khoản 3 điều 26; điểm a khoản 1 điều 35; điểm a, g khoản 1 điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về thời hiệu khởi kiện: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết đảm bảo về thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điều 429 của Bộ luật dân sự.
[3]. Về yêu cầu, ý kiến của các đương sự:
[3.1]. Căn cứ vào lời trình bày của các đương sự và chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, đã có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 01/8/2018, anh Đỗ Đức K có vay của bà Nguyễn Thị N 300.000.000đồng và bà N đã giao đủ tiền cho anh K vay. Để bảo đảm cho khoản vay, anh K viết giấy bán xe ô tô nhãn hiệu CX 5, biển kiểm soát 19A-20127 thuộc quyền sở hữu của vợ chồng anh K cho bà N. Tuy nhiên, anh K không giao giấy tờ và xe ô tô cho bà N. Trong thực tế, hợp đồng mua bán xe ô tô nêu trên chỉ nhằm bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng vay tài sản, nên hợp đồng mua bán xe ô tô giữa bà N và anh K bị vô hiệu theo quy định tại khoản 1 điều 124 của Bộ luật dân sự, nhưng do các đương sự không yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán xe ô tô bị vô hiệu, nên không đề cập giải quyết. Còn hợp đồng vay tài sản giữa bà N và anh K vẫn có hiệu lực pháp luật từ ngày xác lập là ngày 01/8/2018. Quá trình thực hiện hợp đồng vay tài sản, do anh K không trả tiền nên đã vi phạm về nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng.
[3.2]. Về lãi suất: Hợp đồng vay tài sản giữa bà N và anh K xác lập ngày 01/8/2018 là hợp đồng không K hạn và không có lãi. Tuy nhiên, tại phiên tòa, hai bên thống nhất tính lãi từ ngày 01/8/2018 đến ngày 08/5/2019 (280 ngày), với mức lãi suất là 10%/năm và tiền lãi là 23.333.333,3 đ (Làm tròn là 23.333.000đồng). Thỏa thuận về tiền lãi này không trái pháp luật và đạo đức xã hội, nên cần chấp nhận.
Anh K trình bày là bà N cho vay với mức lãi suất 3.000đồng/1.000.000đồng/1 ngày và anh đã trả cho bà N 160.000.000đồng tiền lãi, nhưng anh K không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh, nên không đề cập giải quyết.
[3.3]. Về nghĩa vụ trả nợ: Hợp đồng vay tài sản giữa bà N và anh K xác lập ngày 01/8/2018 chỉ có anh K đứng ra giao kết. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, vợ chồng K, chị Q thừa nhận là khoản tiền vay của gia đình bà N được dùng để phát triển khối tài sản chung của gia đình anh chị và anh K, chị Q đồng ý cùng có nghĩa vụ trả nợ cho gia đình bà N là phù hợp với quy định tại khoản 2 điều 27; khoản 4 điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình.
[3.4]. Về phương thức trả nợ: Bà N yêu cầu vợ chồng anh K, chị Q phải trả đủ tiền vay một lần là phù hợp với quy định tại khoản 1 điều 466 của Bộ luật dân sự. Anh K, chị Q đề nghị được trả dần theo phương thức như anh chị đã trình bày là không có căn cứ chấp nhận.
[3.5]. Từ các phân tích trên, cần buộc vợ chồng anh Đỗ Đức K, chị Trần Lệ Giang Q có nghĩa vụ cùng nhau trả cho vợ chồng bà Nguyễn Thị N, ông Nguyễn Khắc Thanh số nợ gốc là 300.000.000đồng và nợ lãi là 23.333.000đồng, tổng cộng là 323.333.000đồng. Thời hạn trả là kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật.
[3]. Về án phí: Tại phiên tòa, bị đơn là anh Đỗ Đức K xin chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đề nghị này không trái pháp luật và đạo đức xã hội, cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điều 463; Khoản 1, 4 Điều 466; Khoản 2 Điều 468 và Khoản 1 Điều 357 của Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 27; Khoản 4 Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 147; Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/20116 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm án phí lệ phí Tòa án; Điều 26 của Luật thi hành án dân sự.
Xử:
1. Anh Đỗ Đức K, chị Trần Lệ Giang Q có nghĩa vụ cùng nhau trả cho bà Nguyễn Thị N, ông Nguyễn Khắc T số tiền nợ gốc là 300.000.000đồng và tiền lãi là 23.333.000 đồng. Tổng cộng là 323.333.000đ (Ba trăm hai mươi ba triệu ba trăm ba mươi ba nghìn đồng). Thời hạn trả tiền kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
2. Về án phí: Anh Đỗ Đức K phải chịu 16.166.000đ (Mười sáu triệu một trăm sáu mươi sáu nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho bà Nguyễn Thị N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 8.100.000đ (Tám triệu một trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0003258 ngày 24/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có mặt được quyền kháng cáo đến Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hợp lệ hoặc được niêm yết.
Bản án 11/2018/DSST ngày 30/08/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 11/2018/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/08/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về