Bản án 11/2018/DS-ST ngày 21/06/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 11/2018/DS-ST NGÀY 21/06/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Vào ngày 21 tháng 6 năm 2018, tại Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 50/2018/TLST- DS ngày 17 tháng 4 năm 2018 về “Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản và hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2018/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 6 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Kim T, sinh năm 1975. Địa chỉ: ấp T, xãX, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1989 và ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1987.

Địa chỉ: ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai. (Bà Huỳnh Kim T và bà Nguyễn Thị Thanh T có mặt; ông Nguyễn Minh T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Huỳnh Kim T trình bày:

Bà yêu cầu bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Nguyễn Minh T trả cho bà số tiền vay và tiền hụi còn nợ tổng cộng là 365.000.000 đồng. Số tiền này xuất phát từ việc bà Nguyễn Thị Thanh T thỏa thuận vay tiền và chơi hụi do bà làm chủ từ năm 2013, đến tháng 01 năm 2018 thì vợ chồng bà Nguyễn Thị Thanh T không còn khả năng thanh toán nợ, bà và bà Nguyễn Thị Thanh T có thỏa thuận thống nhất số nợ mà vợ chồng bà Nguyễn Thị Thanh T còn nợ của bà là 365.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị Thanh T vay tiền để xoay sở việc gia đình, kinh doanh tiệm internet tại xã X. Ông Nguyễn Minh T không trực tiếp tham gia chơi hụi và vay tiền của bà nhưng bà Nguyễn Thị Thanh T vay và chơi hụi là để lo cho kinh tế gia đình nên bà yêu cầu cả hai vợ chồng bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Nguyễn Minh T phải có trách nhiệm thanh toán cho bà số tiền còn nợ là 365.000.000 đồng. Ngoài ra bà không có yêu cầu gì khác.

- Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh T trình bày: bà thống nhất với lời trình bày của bà Huỳnh Kim T về số nợ hiện nay bà còn nợ bà Huỳnh Kim T gồm tiền vay và tiền nợ hụi. Tính đến thời điểm tháng 02 năm 2018 (âm lịch) bà còn nợ bà Huỳnh Kim T tổng số tiền là 365.000.000 đồng. Đây là số tiền nợ của nhiều lần vay mượn và chơi hụi với nhau nên bà có viết giấy xác nhận có nợ của bà Huỳnh Kim T số tiền này. Nay, bà đồng ý thanh toán cho bà Huỳnh Kim T nhưng đề nghị thanh toán dần mỗi tháng là 3.000.000 đồng. Bà vay tiền và chơi hụi là để kinh doanh và lo kinh tế gia đình, chồng bà là ông Nguyễn Minh T không biết gì về việc bà nợ tiền bà Huỳnh Kim T do việc gia đình do một mình quán xuyến, vì vậy bà đề nghị để một mình bà sẽ chịu trách nhiệm thanh toán số nợ này cho bà Huỳnh Kim T. Ngoài ra bà không có ý kiến gì khác.

- Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Minh T trình bày: ông là chồng của bà Nguyễn Thị Thanh T nhưng ông không biết gì về việc vợ ông vay tiền của bà Huỳnh Kim T vì vợ ông không cho ông biết vay tiền để làm gì, bà Huỳnh Kim T cũng không cho ông biết làvợ ông có vay tiền. Sau tết nguyên đán năm 2018, ông mới biết vợ ông có nợ người khác và không có khả năng thanh toán. Qua làm việc thìông mới biết là vợ ông còn nợ của bà Huỳnh Kim T số tiền là 365.000.000 đồng. Bà Huỳnh Kim T yêu cầu vợ chồng ông trả nợ thì ông không đồng ý vì đây là trách nhiệm của vợ ông, không liên quan gì đến ông vàvà xin được vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.

- Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân nhân dân huyện Xuân Lộc: về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vàsự chấp hành pháp luật của các đương sự cơ bản đúng pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: tại giấy ghi nhận nợ ngày 07 tháng 4 năm 2018, quá trình giải quyết vụ án vàtại phiên tòa, bà Nguyễn Thị Thanh T thừa nhận có nợ bà Huỳnh Kim T số tiền 365.000.000 đồng gồm tiền vay và tiền góp hụi. Bà Nguyễn Thị Thanh T cũng đồng ý thanh toán nợ và xin được thanh toán dần. Bà Nguyễn Thị Thanh T cũng thừa nhận vay tiền và chơi hụi là để kinh doanh vàlo kinh tế gia đình, hơn nữa số tiền bà Nguyễn Thị Thanh T vay và góp hụi với bà Huỳnh Kim T phát sinh trong thời kỳ hôn nhân. Do dó các khoản tiền vay và hụi không do ông Nguyễn Minh T trực tiếp vay nhưng mục đích vay tiền là để lo cho kinh tế gia đình nên ông Nguyễn Minh T phải có trách nhiệm liên đới trả nợ theo quy định tại khoản 1 Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình. Như vậy, yêu cầu của bà Huỳnh Kim T là có cơ sở chấp nhận, buộc vợ chồng bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Nguyễn Minh T phải trả cho bàHuỳnh Kim T số tiền 365.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: bà Huỳnh Kim T khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Nguyễn Minh T thanh toán tiền vay và tiền hụi, hiện bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Nguyễn Minh T đang cư trú tại ấp T, xã X, huyện X nên quan hệ pháp luật là “Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản và hợp đồng góp hụi” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc.

 [2] Về tư cách tham gia tố tụng: bà Huỳnh Kim T khởi kiện vợ chồng bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Nguyễn Minh T nên bà Huỳnh Kim T là nguyên đơn, bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Nguyễn Minh T là bị đơn.

 [3] Về thủ tục tố tụng: bị đơn ông Nguyễn Minh T vắng mặt tại phiên tòa và đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên xét xử vắng mặt ông Nguyễn Minh T tại phiên tòa là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [4] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Bà Huỳnh Kim T yêu cầu vợ chồng bà Nguyễn Thị Thanh T vàông Nguyễn Minh T thanh toán số tiền nợ là 365.000.000 đồng. Trong quá trình làm việc, bà Huỳnh Kim T và bà Nguyễn Thị Thanh T đều thống nhất bà Nguyễn Thị Thanh T còn nợ bà Huỳnh Kim T số tiền vay và tiền chơi hụi tổng cộng là 365.000.000 đồng, nên buộc bà Nguyễn Thị Thanh T thanh toán cho Huỳnh Kim T số tiền nợ 365.000.000 đồng này là phù hợp.

Bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Nguyễn Minh T không thừa nhận việc ông Nguyễn Minh Tcó biết bà Nguyễn Thị Thanh T có nợ bà Huỳnh Kim T. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Thanh T thừa nhận vay tiền và chơi hụi với bàHuỳnh Kim T làđể cótiền kinh doanh vàlo việc kinh tế gia đình. Theo quy định tại Điều 27 và Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ chung do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình và vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ này. Số tiền mà bà Nguyễn Thị Thanh T còn nợ bà Huỳnh Kim T phát sinh từ việc vay mượn và chơi hụi để phục vụ cho hoạt động kinh doanh vàlo cho kinh tế gia đình là để nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình bà Nguyễn Thị Thanh T vàông Nguyễn Minh T. Vì vậy xác định đây là nợ chung của vợ chồng, nên ông Nguyễn Minh T phải có trách nhiệm cùng bà Nguyễn Thị Thanh T thanh toán toàn bộ số nợ này cho bà Huỳnh Kim T là phù hợp.

 [5] Về án phí: bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Nguyễn Minh T có nghĩa thanh toán nợ vay cho bà Huỳnh Kim T với số tiền 365.000.000 đồng nên bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Nguyễn Minh T phải chịu án phí là 18.250.000 đồng (5% x 365.000.000 đồng). Yêu cầu của bà Huỳnh Kim T được chấp nhận toàn bộ nên hoàn trả tạm ứng án phí cho bà Huỳnh Kim T.

 [6] Nhận định của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc về việc giải quyết vụ án phùhợp với nhận định trên nên chấp nhận.

Vìcác lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39 vàĐiều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 471 và Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 27, Điều 30 và Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bàHuỳnh Kim T.

Buộc bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Nguyễn Minh T thanh toán cho bà Huỳnh Kim Thảo số tiền 365.000.000 đồng (Ba trăm sáu mươi lăm triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn xin thi hành án (Sau khi bản án cóhiệu lực pháp luật) mà người phải thi hành án chưa thi hành xong số tiền nêu trên thìcòn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi 10%/năm tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành.

Về án phí: bà Nguyễn Thị Thanh T vàông Nguyễn Minh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 18.250.000 đồng (Mười tám triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng). Hoàn trả cho bà Huỳnh Kim T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 9.125.000 đồng (Chín triệu một trăm hai mươi lăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 008345 ngày 16 tháng 4 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc.

Bà Huỳnh Kim T và bà Nguyễn Thị Thanh T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Minh T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2018/DS-ST ngày 21/06/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hợp đồng góp hụi

Số hiệu:11/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;