TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 11/2017/DS-ST NGÀY 06/09/2017 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOẠI HỢP ĐỒNG DO SỨC KHỎE XÂM PHẠM
Trong ngày 06 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nông Sơn, Toà án nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 04/2017/TLST-DS, ngày 13 tháng 3 năm 2017 về: "Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khoẻ bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2017/QĐXXST-DS, ngày 03 tháng 8 năm 2017; giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Trà Thị M, sinh năm: 1970; địa chỉ: Thôn TP, xã Q, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam; có mặt.
Bị đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm: 1982; địa chỉ: Thôn TP, xã Q, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam; triệu tập hợp lệ lần thứ 2 vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 12/3/2017 và bản tự khai ngày 29 tháng 3 năm 2017 chị Trà Thị M trình bày:
Ngày 10 tháng 9 năm 2016 chị Trần Thị H vô cớ vào nhà chị đánh chị, cố tình gây thiệt hại, đe doạ tính mạng chị, nhằm xoá đi số nợ bà Trần Thị P (mẹ của chị Trần Thị H) đã mượn. Chị H đã gây thương tích cho chị là 7%. Do đó chị khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân huyện Nông Sơn buộc chị Trần Thị H bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm.
Theo đơn khởi kiện chị M yêu cầu bồi thường số tiền: 53.733.000 đồng. Tuy nhiên tại bản tự khai ngày 29 tháng 3 năm 2017 và tại phiên toà chị M thay đổi, chỉ yêu cầu số tiền bồi thường: 47.673.000 đồng, gồm:
- Tiền thuốc tại bệnh viện Đa khoa Quảng Nam: 978.000 đồng;
- Tiền thuốc tại Trung tâm Y tế Nông Sơn lần 1: 326.000 đồng
- Tiền thuốc tại Trung tâm Y tế Nông Sơn lần 2: 686.000 đồng
- Tiền Thuốc Tại phòng khám Bác sĩ Châu: 290.000 đồng
- Tiền 10 thang thuốc Đông y của thầy Khôi: 600.000 đồng
- Tiền xe đi và về từ Trung tâm Y tế Nông Sơn và Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng: 1.938.000 đồng
- Tiền xe đi và về từ Trung tâm Y tế Nông Sơn và Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam: 1.250.000 đồng
- Tiền thu nhập thực tế bị mất: 8.130.000 đồng
- Tiền bồi dưỡng: 2.200.000 đồng
- Tiền người nuôi người bệnh trong thời gian nhập viện: 195.000 đồng x 22 ngày là: 4.290.000 đồng
- Tiền người nuôi con nhỏ người bệnh trong thời gian nhập viện: 195.000 đồng x 22 ngày là 4.290.000 đồng
- Tiền chi phí giám định: 1.695.000 đồng
- Tiền xe đi giám định: 1.000.000 đồng
- Tiền thiệt hại tinh thần: 20.000.000 đồng.
Đối với bị đơn chị Trần Thị H:
Căn cứ tài liệu thu thập tại Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Nông Sơn, thấy rằng:
Tại bản trình bày của chị Trần Thị H ngày 10/9/2016 và tại Biên bản lấy lời khai ngày 14/9/2016 của Công an xã Q; Biên bản ghi lời khai ngày 05/10/2016, ngày 05/12/2016 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nông Sơn chị H thừa nhận chị có dùng cây chuổi đánh chị M và thừa nhận hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật.
Báo cáo Kết thúc điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nông Sơn, xác định vào ngày 10/9/2016 chị Trần Thị H đã có hành vi đánh chị Trà Thị M gây thương tích. Tại bản giám định thương tích số: 281/GĐTT.16 ngày 13/10/2016 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Nam, xác định thương tích của chị Trà Thị M là 7%.
Tại Quyết định xử phạt hành chính số:25/QĐ-XPHC, ngày 21/02/2017 của Công an huyện Nông Sơn, xử phạt vi phạm hành chính với mức tiền phạt là 2.500.000 đồng, về hành vi vào ngày 10/9/2016, tại thôn TP, xã Quế T, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam chị Trần Thị H đã có hành vi đánh chị Trà Thị M gây thương tích.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã giao trực tiếp cho chị Trần Thị H Thông báo thụ lý vụ án, mặc dù đã hết thời hạn ấn định trong thông báo thụ lý, nhưng chị Huyền không có văn bản trả lời. Toà án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ giải quyết ban đầu tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nông Sơn và thông báo việc thu thập chứng cứ nhưng chị H vẫn không có văn bản nêu ý kiến. Toà án tiếp tục ra Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải chị H trực tiếp nhận, nhưng không đến Toà án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, Toà án đã triệu tập hợp lệ lần thứ 2, nhưng chị H không tham gia phiên toà, không có văn bản gì về việc vắng mặt.
Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được đã được xem xét tại phiên tòa. Căn cứ lời khai của nguyên đơn, lời khai của bị đơn tại Công an xã Q và tại Cơ quan điều tra Công an huyện Nông Sơn; Kết luận của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nông Sơn, Hội đồng xét xử nhận định có đủ cơ sở xác định chị Trần Thị H đã có hành vi gây thương tích cho chị Trà Thị M, nên chị Trà Thị M yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm là có cơ sở đúng pháp luật.
Xét yêu cầu của chị Trà Thị M về viện phí, tiền thuốc cứu chữa, giám định, bồi dưỡng, chi phí thuê phương tiện, tiền mất thu nhập, tiền thuê người chăm sóc chị và các con nhỏ khi nhập viện, số tiền là 27.673.000 đồng.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 584, 586, 588, 590 của Bộ luật dân sự năm 2015; tiểu mục 1, mục II, Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, buộc chị Trần Thị H phải bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm đối với yêu cầu của chị M, số tiền đề nghị chấp nhận: 22.493.000 đồng, trừ số tiền: 5.180.000 đồng, không có chứng từ và không có cơ sở, gồm các khoản sau:
- Tiền mua thuốc tại phòng khám bác sĩ Châu: 290.000 đồng;
- Tiền mua 10 thang thuốc Đông y của thầy Khôi: 600.000 đồng;
- Tiền thuê người nuôi con nhỏ của chị M trong thời gian chị M nhập viện: 195.000 đồng x 22 ngày là: 4.290.000 đồng.
Hội đồng xử xử xét yêu cầu của nguyên đơn chị Trà Thị M và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà, thấy rằng:
Tiền xe đi và về từ Trung tâm Y tế Nông Sơn và Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng: 1.938.000 đồng; Chị M khai đi ngày 10/9/2016, nhưng hoá đơn giá trị gia tăng ghi ngày 16/9/2016, số tiền: 1.100.000 đồng, chị M khai mua hoá đơn hợp thức xe từ huyện Hiệp Đức nên không đúng thực tế. Tiền xe về 838.000 đồng không có hoá đơn. Mặc khác chị M không cung cấp hồ sơ chụp City Scan hoặc điều trị tại bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng, nên không thể xác định chị M có đi hay không để chấp nhận. Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của chị M và đề nghị của kiểm sát viên.
Tiền xe đi về từ bệnh viện Đa khoa Quảng Nam về Nông Sơn số tiền: 650.000 đồng, chứng từ biên lai, cước phí không ghi tên người đi, không ghi tuyến đường đi, biên lai Taxi không ghi ngày tháng năm, nên không có cơ sở chấp nhận.
Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị M về khoản tiền thuê người nuôi con nhỏ trong thời gian nhập viện: 195.000 đồng x 22 ngày là 4.290.000 đồng; bởi lẽ chị M chồng đã mất, hiện một mình nuôi 03 con nhỏ (02 cháu sinh đôi năm 2004 và 01 cháu sinh năm 2006) trong thời gian nhập viện chị không thể chăm sóc 03 con, mà phải thuê người lo ăn uống, quản lý chăm sóc, chị đã chi trả cho người thuê 195.000 đồng/ngày, có giấy nhận tiền 4.290.000 đồng nên chấp nhận.
Như vậy chị M yêu cầu buộc chị H số tiền: 27.673.000 đồng, Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận: 22.493.000 đồng, Hội đồng xét xử chấp nhận 24.195.000 đồng; gồm:
1.Tiền thuốc tại bệnh viện Đa khoa Quảng Nam: 978.000 đồng;
2.Tiền thuốc tại Trung tâm Y tế Nông Sơn lần 1: 326.000 đồng.
3.Tiền thuốc tại Trung tâm Y tế Nông Sơn lần 2: 686.000 đồng;
4.Tiền xe đi chuyển viện từ Trung tâm Y tế Nông Sơn và Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam: 600.000 đồng
5.Tiền thu nhập thực tế bị mất: 8.130.000 đồng;
6.Tiền bồi dưỡng: 2.200.000 đồng;
7. Tiền thuê người nuôi chị M trong thời gian chị M nhập viện là: 4.290.000 đồng;
8. Tiền thuê người nuôi, chăm sóc con nhỏ của chị M trong thời gian chị M nhập viện là: 4.290.000 đồng.
9. Tiền chi phí giám định: 1.695.000 đồng
10. Tiền xe đi giám định: 1.000.000 đồng
Xét yêu cầu của chị Trà Thị M yêu cầu khoản bù đắp tinh thần số tiền 20.000.000 đồng:
Chị M là giáo viên, đồng thời là thím dâu của chị H (vợ của chú ruột chị H) nhưng chị H đã dùng cây chuổi đánh trên đầu gây thương tích ngay tại nhà chị M, cũng là tại khu vực chợ làm ảnh hưởng uy tín, danh dự của chị M.
Từ khi gây thương tích cho chị M đến nay, kể cả trong thời gian chị M nhập viện, chị H không thăm hỏi, không xin lỗi. Trong quá trình Toà án giải quyết vụ án, chị H không đến hoà giải làm cho tinh thần của chị M bị ức chế, bức xúc luôn suy nghĩ, mất ngủ ảnh hưởng đến sức khoẻ, tinh thần nên yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần là chính đáng.
Tuy nhiên chị M yêu cầu bồi thường 20 triệu, tương đương với 15 tháng lương tối thiểu là quá cao. Hội đồng xét xử căn cứ vào thương tích 7% và căn cứ hành vi cuả chị H, mức độ ảnh hưởng tinh thần của chị M, Hội đồng xét xử thống nhất đề nghị của Kiểm sát viên, buộc chị H phải bù đắp về tinh thần cho chị M số tiền bằng 05 tháng lương tối thiểu, tại thời điểm xét xử là: 6.500.000 đồng.
Tổng số tiền buộc chị Trần Thị H phải bồi thường cho chị Trà Thị M là: 24.195.000 đồng + 6.500.000 đồng = 30.695.000 đồng.
Về án phí: Áp dụng Pháp lệnh về án phí, lệ phí Toà án, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, buộc chị Trần Thị H phải chịu án phí sơ thẩm dân sự 5% trên số tiền buộc phải bồi thường cho chị Trà Thị M là 30.695.000 đồng x 5% = 1.534.750 đồng, làm tròn là: 1.535.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 584, 585, 590 của Bộ luật dân sự năm 2015; Pháp lệnh về án phí, lệ phí Toà án; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của chị Trà Thị M, buộc chị Trần Thị H có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm cho chị Trà Thị M, số tiền: 30.695.000 đồng (ba mươi triệu, sáu trăm chín lăm ngàn đồng)
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và chị Trà Thị M có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong số tiền nói trên, hàng tháng chị Trần Thị H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án, lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Án phí: Buộc chị Trần Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền: 1.535.000 đồng (một triệu năm trăm ba lăm ngàn đồng).
Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Đương sự có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt thời hạn 15 ngày, được tính từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết hợp lệ để yêu cầu TAND tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm.
Bản án 11/2017/DS-ST ngày 06/09/2017 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khoẻ bị xâm phạm
Số hiệu: | 11/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nông Sơn - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 06/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về