TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 11/2016/KDTM-PT NGÀY 13/07/2016 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG, THẾ CHẤP
Ngày 13 tháng 7 năm 2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số 13/2016TLPT-KDTM ngày 11/4/2016 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng, thế chấp”.
Do Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2016/KDTM ngày 26/01/2016 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Nghệ An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 30/2016QĐXX-PT ngày 21 tháng 6 năm 2016 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ngân hàng S.
Địa chỉ: 77 đường T, quận H, thành phố Hà Nội
Địa chỉ chi nhánh tại Nghệ An: Số 58 đường L, TP.Vinh, tỉnh Nghệ An.
Đại diện được ủy quyền: Ông Trần Thanh B, sinh năm 1965; Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng S - chi nhánh tại Nghệ An. Có mặt
* Bị đơn:
- Bà Cao Thị L; sinh năm 1959. Có mặt
- Ông Nguyễn Công T; sinh năm 1957. Có mặt
Đều trú tại: Khối 3, thị trấn D, huyện D, Nghệ An
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Bà NLQ1, sinh năm 1964. Có mặt
- Ông NLQ2, sinh 1958 (chồng NLQ1). Vắng mặt
Đều trú tại: Xóm 4, xã D, huyện D, Nghệ An
Ông NLQ2 ủy quyền cho bà NLQ1 (vợ NLQ2) thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng. NLQ1 có mặt.
* Người kháng cáo: Nguyên đơn là Ngân hàng S
NHẬN THẤY
Tại đơn khởi kiện và các biên bản lấy lời khai đại diện nguyên đơn là Ngân hàng S trình bày như sau:
Ngày 14/6/2010, Ngân hàng S (Sau đây gọi tắt là ngân hàng) và bà Cao Thị L, ông Nguyễn Công T ký Hợp đồng tín dụng số 971 ngày 14/6/2010 cấp tín dụng cho bà Cao Thị L và ông Nguyễn Công T vay số tiền 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng) để bổ sung vốn kinh doanh. Thời hạn vay là 12 tháng, lãi suất vay trong hạn là 1,29%/tháng, lãi quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Trả lãi vào ngày 14 hàng tháng.
Tài sản bảo đảm khoản vay: Là quyền sử dụng đất thửa số 82, tờ bản đồ số 03, diện tích 198,9m2, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH-431357 do Uỷ ban nhân dân huyện D cấp ngày 28/01/2010 cho ông NLQ2 và bà NLQ1 và quyền sử dụng đất diện tích 217,3m2, theo tờ bản đồ số 03, thửa số 1364, tại Cồn Mô, xóm 4, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An đã được cấp giấy CNQSD đất số BB 604750 do UBND huyện D cấp ngày 15/5/2010 cho ông NLQ2 và bà NLQ1; Theo hợp đồng thế chấp số 804/2010/HĐTC SHB NA ngày 14/6/2010, được công chứng số 1628/2010 ngày 16/6/2011 tại Phòng công chứng số 2 tỉnh Nghệ An.
Ông Nguyễn Công T và bà Cao Thị L đã nhận đủ 500.000.000đ theo hợp đồng trên. Ngày 16/6/2011, bà L và ông T đã thanh lý hợp đồng tín dụng số 971 ngày 14/6/2010 và trả cho Ngân hàng đầy đủ tiền gốc và tiền lãi.
Ngày 25/12/2012, Ngân hàng tiếp tục cho vợ chồng bà L, ông T vay 500.000.000đ, theo hợp đồng tín dụng số 2076 để bổ sung vốn kinh doanh, thời gian vay 12 tháng, lãi suất trong hạn 15,3%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, trả lãi vào ngày 25 hàng tháng.
Tài sản đảm bảo khoản vay theo hợp đồng tín dụng số 2076 ngày 25/12/2012 nêu trên cũng là quyền sử dụng 2 thửa đất nêu trên của ông NLQ2 và bà NLQ1. Theo hợp đồng thế chấp số 804/2010/HĐTC SHB NA ngày 14/6/2010, được công chứng số 1628/2010 ngày 16/6/2010 tại Phòng công chứng số 2, tỉnh Nghệ An. Ông Nguyễn Công T và bà Cao Thị L đã nhận đủ số tiền 500.000.000đ. Kể từ khi vay vốn cho tới nay bà L đã trả cho Ngân hàng được 21.482.213đ, trong đó 19.769.388đ tiền lãi (trả lãi đến ngày 27/3/2013) và 1.712.815đ tiền phạt chậm trả lãi. Cách tính lãi suất của Ngân hàng cụ thể như sau:
- Từ ngày 25/12/2012 đến hết ngày 31/3/2013 lãi suất áp dụng 1,275%/tháng
- Từ ngày 01/4/2013 đến hết ngày 19/6/2013 lãi suất áp dụng 1,167%/tháng
- Từ ngày 20/6/2013 đến hết ngày 19/9/2013 lãi suất áp dụng 1,383%/tháng
- Từ ngày 20/9/2013 đến hết ngày 11/5/2015 lãi suất áp dụng 1,025%/tháng
Ngân hàng yêu cầu Tòa án xét xử vụ án buộc bà Cao Thị L và ông Nguyễn Công T phải trả cho ngân hàng số tiền gốc 500.000.000đ và tiền lãi 180.555.398đ.
Tổng cộng là 680.555.398đ, ngoài số tiền bà L đã trả trước đây; miễn giảm 93.000.000đ tiền phạt lãi suất quá hạn cho bà L, ông T.
Bị đơn bà Cao Thị L và ông Nguyễn Công T thống nhất trình bày:
Ngày 14/6/2010, bà L và ông T có ký hợp đồng tín dụng số 971 vay của Ngân hàng S, chi nhánh Nghệ An với số tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng) tại Hợp đồng tín dụng số 971 ngày 14/6/2010. Tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp số 804/2010/HĐTC SHB NA ngày 14/6/2010, được công chứng số 1628/2010 ngày 16/6/2010 tại phòng công chứng số 2, tỉnh Nghệ An đúng như Ngân hàng đã trình bày. Ông Nguyễn Công T và bà Cao Thị L đã nhận đủ số tiền 500.000.000đ theo hợp đồng số 971.
Ngày 16/6/2011, bà L, ông T đã trả cho Ngân hàng đầy đủ tiền gốc, tiền lãi và thanh lý hợp đồng tín dụng số 971 ngày 14/6/2010.
Ngày 25/12/2012, Ngân hàng tiếp tục cho vợ chồng bà L, ông T vay 500.000.000đ theo hợp đồng tín dụng số 2076 ngày 25/12/2012 để bổ sung vốn kinh doanh, thời gian vay 12 tháng, lãi suất trong hạn 15,3%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, trả lãi hàng tháng vào ngày 25 hàng tháng. Tài sản tiếp tục được đảm bảo bằng hợp đồng thế chấp số 804 ngày 14/6/2010.
Nay Ngân hàng yêu cầu vợ chồng bà L, ông T phải trả nợ cho Ngân hàng tiền gốc và tiền lãi là 680.555.398đ, vợ chồng bà chấp nhận trả tiền gốc 500.000.000đ, nhưng xin Ngân hàng xóa tiền lãi cho vợ chồng, vì bà L hiện nay đang mắc bệnh ung thư.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà NLQ1 và ông NLQ2 (NLQ2 ủy quyền cho NLQ1) trình bày:
Ngày 14/6/2010, vợ chồng bà có thế chấp hai thửa đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hợp đồng thế chấp số 804/2010/HĐTC SHB NA ngày 14/6/2010 cho ông NLQ2 và bà NLQ1 vay tiền Ngân hàng là: Thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH-431357, tại thửa đất số 82, tờ bản đồ số 03, diện tích 198,9m2 do UBND huyện D cấp ngày 28/01/2010 và quyền sử dụng đất tại Cồn Mô, xóm 4, xã D, D, Nghệ An đã được cấp giấy CNQSD đất số BB 604750, tại tờ bản đồ số 03, thửa số 1364, diện tích 217,3m2 cho Ngân hàng để bà Cao Thị L vay Ngân hàng số tiền 300.000.000đ, theo Hợp đồng tín dụng số 971 ngày 14/6/2010 với thời hạn là một năm, còn bà L vay 500.000.000đ bà không chấp nhận.
Ngày 25/12/2012, Ngân hàng tiếp tục dùng hợp đồng thế chấp số 804/2010/HĐTC SHB NA ngày 14/6/2010 để đảm bảo cho khoản vay theo hợp đồng tín dụng số 2076 ngày 25/12/2012 bà không nhất trí vì: Ngày 16/6/2011 vợ chồng bà L đã thanh lý hợp đồng tín dụng số 971 ngày 14/6/2010 cho Ngân hàng đầy đủ tiền gốc và lãi. Bà không biết khoản vay theo hợp đồng tín dụng số 2076. Nay bà phản tố yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp 804 ngày 14/6/2010 giữa vợ chồng bà với Ngân hàng là hợp đồng vô hiệu và đề nghị Ngân hàng trả lại cho bà 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên.
Bản án sơ thẩm số 01/2016/KDTM ngày 26/01/2016 của Tòa án nhân dân huyện D đã quyết định:
Áp dụng Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 127, 128, 344, 357, 411, 473, 474, 476, 718, 719 Bộ luật dân sự, các Điều 91, 95, 98 Luật các tổ chức tín dụng, Điều 12 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch đảm bảo; Điều 3, 4, 5, 6 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về việc đăng ký giao dịch bảo đảm và Pháp lệnh án phí lệ phí Tòa án xử:
Buộc bà Cao Thị L và ông Nguyễn Công T phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng S số tiền 680.55.398đ; trong đó tiền gốc 500.000.000đ, tiền lãi 180.55.398đ.
Tuyên bố hợp đồng thế chấp số 804 - 2010 HĐTD – SHB – NA, ngày 14/6/2010 được ký kết giữa bên nhận thế chấp là Ngân hàng S, bên thế chấp là bà NLQ1 và ông NLQ2, bên vay là bà Cao Thị L và ông Nguyễn Công T là hợp đồng vô hiệu.
Buộc Ngân hàng S phải trả lại cho bà NLQ1 và ông NLQ2 hai giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất và Quyền sử dụng hai thửa đất cụ thể như sau:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 431357 đối với thửa đất số 82, tờ bản đồ số 03, diện tích 198,9m2 tại xã D do UBND huyện D cấp ngày 28/01/2010 cho ông NLQ2 và bà NLQ1.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB 604750 đối với thửa đất số 1364, tờ bản đồ số 3, diện tích 217,3m2 tại xã D do UBND huyện D cấp ngày 15/5/2010 cho ông NLQ2 và bà NLQ1.
Án phí: Bà Cao Thị L và ông Nguyễn Công T phải chịu 33.997.000đ án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Ngân hàng S phải chịu 200.000đ án phí đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp không được chấp nhận.
Trả lại cho Ngân hàng S tiền tạm ứng án phí đã nộp 15.968.000đ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện D, theo biên lai số 008704 ngày 02/6/2015.
Trả lại 200.000đ tiền dự phí cho bà NLQ1 theo biên lai thu số 0008893 ngày 29/12/2015 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện D.
Bản án còn quyết định về vấn đề thi hành án dân sự, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 05/02/2016, Ngân hàng S kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm: Công nhận hợp đồng thế chấp số 804 - 2010 HĐTD – SHB – NA, ngày 14/6/2010 được ký kết giữa bên nhận thế chấp là Ngân hàng S, bên thế chấp là bà NLQ1 và ông NLQ2 là có hiệu lực pháp luật và phát mại bán tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất 198,9m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 82 tờ bản đồ số 03 tại xã D huyện D và Quyền sử dụng đất 217,3m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 1363 tờ bản đồ số 03 tại Cồn Mô, xóm 4, xã D, huyện D thuộc quyền sử dụng và sở hữu của bà NLQ1 và ông NLQ2 để thu hồi nợ cho ngân hàng khi ông T và bà L không trả được nợ. Tại phiên tòa Ngân hàng S giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng; Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và Hội đồng xét xử thực hiện đúng các quy định của của pháp luật về tố tụng.
Về nội dung: Xét kháng cáo của Ngân hàng S về tài sản thế chấp xét thấy: Ngày 14/6/2010, Ngân hàng và ông T, bà L với NLQ2 và NLQ1 ký hợp đồng thế chấp số 804/2010/HĐTC SHB NA để đảm bảo cho khoản vay của ông T và bà L theo Hợp đồng tín dụng số 971 ngày 14/6/2010 và các hợp đồng sẽ ký tiếp theo.
Ngày 16/6/2011, ông T và bà L đã thanh lý trả đầy đủ các khoản tiền gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng số 971 thì nghĩa vụ bảo đảm của NLQ1 và NLQ2 đã chấm dứt. Ngân hàng và ông T, bà L tiếp tục ký hợp đồng tín dụng số 2076 ngày 25/12/2012 cho ông T bà L vay số tiền 500.000.000đ và tiếp tục dùng hợp đồng thế chấp số 804/2010/HĐTC SHB NA ngày 14/6/2010 và các tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của NLQ2 và NLQ1 theo hợp đồng thế chấp này để đảm bảo cho khoản vay mới mà không thông báo cho bên bảo đảm tài sản là NLQ2 và NLQ1 biết và không thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm là không phù hợp với Điều 12 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo của Ngân hàng. Yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng không được chấp nhận nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc Ngân hàng phải chịu 200.000đ tiền án phí đối với nội dung khởi kiện này là phù hợp; Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không tính trừ trong số tiền dự phí khởi kiện mà Ngân hàng đã nộp là chưa phù hợp nên nay cần sửa lại cách tuyên án để trả lại cho Ngân hàng số tiền dự phí khởi kiện còn thừa là 15.768.000đ.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát các bên đương sự trong vụ án.
XÉT THẤY
Về tố tụng: Đây là phiên tòa được triệu tập hợp lệ lần thứ hai và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông NLQ2 vắng mặt. Tuy nhiên, NLQ2 đã ủy quyền cho vợ là bà NLQ1 tham gia tố tụng. Do vậy Hội đồng xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
Về nội dung xét thấy: Đối với phần quyết định của bản án sơ thẩm tuyên xử về nghĩa vụ trả nợ của ông Nguyễn Công T và bà Cao Thị L cho Ngân hàng số tiền nợ cả gốc và lãi 680.555.398đ không đương sự nào có kháng cáo và không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực theo quy định của pháp luật.
Xét nội dung kháng cáo của Ngân hàng về tài sản thế chấp thấy rằng: Ngày 14/6/2010, bà L và ông T ký hợp đồng tín dụng vay của Ngân hàng S, chi nhánh Nghệ An với số tiền 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng) theo Hợp đồng tín dụng số 971 ngày 14/6/2010. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng thửa đất số 82, tờ bản đồ số 03, diện tích 198,9m2, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 431357 ngày 28/01/2010 do UBND huyện D cấp cho ông NLQ2 và bà NLQ1 và quyền sử dụng đất tại Cồn Mô, xóm 4, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An đã được cấp giấy CNQSD đất số BB 604750, tờ bản đồ số 03, thửa số 1364, diện tích 217,3m2 cũng do UBND huyện D cấp cho ông NLQ2 và bà Nguyễn Thị Hà; Theo hợp đồng thế chấp số 804/2010/HĐTC SHB NA ngày 14/6/2010; Được công chứng số 1628/2010 ngày 16/6/2010 tại Phòng công chứng số 2, tỉnh Nghệ An. Thực hiện hợp đồng tín dụng số 971, bà L và ông T đã nhận đủ số tiền vay 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng) theo Khế ước nhận nợ số 01/SHB ngày 16/6/2010. Ngày 16/6/2011, bà L và ông T đã thanh lý hợp đồng tín dụng số 971 ngày 14/6/2010 thực hiện trả đầy đủ khoản vay này cho Ngân hàng. Như vậy nghĩa vụ dùng các tài sản nêu trên của NLQ2 và NLQ1 để bảo đảm của NLQ1 và NLQ2 đã không còn sau khi hợp đồng tín dụng số 971 ngày 14/6/2010 đã được thanh lý xong.
Ngày 25/12/2012, Ngân hàng tiếp tục cho vợ chồng bà L, ông T vay 500.000.000đ theo hợp đồng tín dụng số 2076 ngày 25/12/2012 để bổ sung vốn kinh doanh, thời gian vay 12 tháng. Theo hợp đồng tín dụng mà Ngân hàng cung cấp có trong hồ sơ vụ án thì tại hợp đồng này chỉ bên cho vay là Ngân hàng và bên vay là ông T, bà L ký vào hợp đồng. Bên thế chấp tài sản là NLQ1 và NLQ2 không ký vào hợp đồng nên NLQ2 và NLQ1 không thể biết có hợp đồng này được ký kết để biết việc bà L và ông T lại tiếp tục vay Ngân hàng số tiền 500.000.000đ. Sau khi ký hợp đồng tín dụng số 2076 ngày 25/12/2012 và cho bà L và ông T vay tiền thì phía Ngân hàng cũng không có lần nào thông báo cho NLQ1 và NLQ2 biết việc bà L và ông T vay tiền để họ biết để thực hiện nghĩa vụ bảo đảm bằng tài sản của mình. Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án thì không có chứng cứ nào thể hiện NLQ2 và NLQ1 biết việc, bà L và ông T vay tiếp Ngân hàng số tiền 500.000.000đ theo hợp đồng số 2076 ngày 25/12/2012 và tài sản là quyền sử dụng 2 thửa đất và tài sản trên đất của họ được đảm bảo cho khoản vay mới này. Theo NLQ1 thì đến khi Tòa cấp sơ thẩm gọi bà đến làm việc bà mới biết việc thế chấp mới này.
Theo quy định tại hợp đồng thế chấp số 804/2010/HĐTC SHB NA ngày 14/6/2010 thì bên bảo đảm thực thiện nghĩa vụ bảo đảm theo hợp đồng tín dụng số 971 ngày 14/6/2010 và các hợp đồng sẽ được ký kết giữa bên cho vay là Ngân hàng và bên vay tiền là bà L, ông T. Tuy nhiên, theo phân tích trên thì nếu có hợp đồng tín dụng khác thì bên Ngân hàng và bên vay tiền cũng phải thông báo cho bên bảo đảm là NLQ2 và NLQ1 biết để bên bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với khoản vay mới phù hợp với quy định của pháp luật.
Mặt khác, theo hợp đồng thế chấp số 804/2010/HĐTC SHB NA ngày 14/6/2010 tài sản thế chấp của NLQ2, NLQ1 là để bảo đảm cho hợp đồng tín dụng cụ thể, đó là hợp đồng số 971 ngày 14/6/2010 với số tiền 500.000.000đ. Khi khoản vay này đã được thanh toán đầy đủ thì tài sản đã được giải chấp. Để thế chấp cho một khoản vay mới khác thì các bên phải làm thủ tục đăng ký thế chấp lại mới phù hợp với quy định của pháp luật. Thế nhưng ở đây phía Ngân hàng không làm thủ tục xóa thế chấp và đăng ký thế chấp lại là không đúng với quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng về nội dung: Trường hợp ông T và bà L không trả được khoản nợ vay của Ngân hàng phát sinh từ hợp đồng tín dụng số 2076 ngày 25/12/2012 thì xử lý phát mại bán tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất diện tích 198,9m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 82, tờ bản đồ số 03, tại xã D, huyện D và Quyền sử dụng đất diện tích 217,3m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 1363, tờ bản đồ số 03, tại Cồn Mô xóm 4 xã D, huyện D thuộc quyền sử dụng và sở hữu của bà NLQ1 và ông NLQ2 để thu hồi nợ cho Ngân hàng. Do vậy, Hợp đồng thế chấp số 804/2010/HĐTC SHB NA là vô hiệu đối với khoản vay theo hợp đồng tín dụng số 2076 ngày 25/12/2012 được ký kết giữa Ngân hàng và ông T, bà L. Ngân hàng có nghĩa vụ trả lại 2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho NLQ2 và NLQ1 theo yêu cầu phản tố của NLQ1.
Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo của Ngân hàng S và cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về phần tài sản thế chấp.
Do yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng không được chấp nhận nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc Ngân hàng phải chịu 200.000đ tiền án phí đối với nội dung khởi kiện này là phù hợp; Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không tính trừ trong số tiền dự phí khởi kiện mà Ngân hàng đã nộp là chưa phù hợp nên nay cần sửa lại cách tuyên án để trả lại cho Ngân hàng số tiền dự phí khởi kiện còn thừa là 15.768.000đ. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo và không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực theo quy định của pháp luật.
Ngân hàng kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự
QUYẾT ĐỊNH
Không chấp nhận nội dung kháng cáo của Ngân hàng S; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm, sửa lại cách tuyên án về số tiền dự phí khởi kiện trả lại cho Ngân hàng S.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 10, Điều 12 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm và Điều 4, Điều 6 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 về đăng ký giao dịch bảo đảm; Điều 132 Bộ luật tố tụng dân sự; Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng S về nội dung: Trường hợp ông Nguyễn Công T và bà Cao Thị L không trả hoặc trả không đủ khoản nợ vay của Ngân hàng phát sinh từ hợp đồng tín dụng số 2076 ngày 25/12/2012 thì phát mại bán tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất 198,9m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 82, tờ bản đồ số 03, tại xã D, huyện D và Quyền sử dụng đất 217,3m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 1363 tờ bản đồ số 03 tại Cồn Mô, xóm 4, xã D, huyện D thuộc quyền sử dụng và sở hữu của bà NLQ1 và ông NLQ2 để thu hồi nợ cho ngân hàng.
Tuyên bố hợp đồng thế chấp số 804/2010/HĐTC SHB NA ngày 14/6/2010 được ký kết giữa Ngân hàng S với ông Nguyễn Công T và bà Cao Thị L và ông NLQ2 và bà NLQ1 là vô hiệu đối với khoản vay theo hợp đồng tín dụng số 2076 ngày 25/12/2012 được ký kết giữa Ngân hàng và ông Nguyễn Công T và bà Cao Thị L.
Buộc Ngân hàng S phải trả lại cho bà NLQ1 và ông NLQ2 hai giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất theo hai thửa đất cụ thể như sau:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 431357 do UBND huyện D cấp ngày 28/01/2010 mang tên ông NLQ2 và bà NLQ1, đối với thửa đất số 82, tờ bản đồ số 03, diện tích 198,9m2 tại xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB 604750 do UBND huyện D cấp ngày 15/5/2010 mang tên ông NLQ2 và bà NLQ1 đối với thửa đất số 1364, tờ bản đồ số 3, diện tích 217,3m2 tại xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An.
Án phí: Ngân hàng S phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí sơ thẩm đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp không được chấp nhận, nhưng được trừ trong số tiền dự phí khởi kiện đã nộp; Trả lại cho Ngân hàng S tiền tạm ứng án phí đã nộp còn thừa 15.768.000đ (Mười lăm triệu, bảy trăm sáu tám ngàn đồng) tại Chi cục thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Nghệ An theo biên lai số 008704 ngày 02/6/2015.
Ngân hàng S phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí KDTM phúc thẩm, nhưng được trừ trong số tiền dự phí kháng cáo đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0002347 ngày 01/3/2016
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án ./.
Bản án 11/2016/KDTM-PT ngày 13/07/2016 về tranh chấp hợp đồng tín dụng, thế chấp
Số hiệu: | 11/2016/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 13/07/2016 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về