Bản án 11/2016/DS-ST ngày 20/07/2016 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 11/2016/DS-ST NGÀY 20/07/2016 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM 

Hôm nay, ngày 20 tháng 07 năm 2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 25/2016/TLST-DS ngày 22 tháng 03 năm 2016, về việc “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2016/QĐST-DS ngày 27 tháng 06 năm 2016, giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

Ông Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm 1988;

Địa chỉ: Đường N, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đào Thị Bích C, sinh năm 1995; Địa chỉ: Đường N, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

(Văn bản ủy quyền ngày 17 tháng 03 năm 2016).

Bị  đơn: Ông Nguyễn Đình D, sinh năm: 1981;

Và ông Nguyễn Đình H, sinh năm: 1983;

Cùng trú tại: Đường T, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

(Ông H có mặt tại phiên tòa; bà C, ông D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NHẬN THẤY

Tại đơn khởi kiện ngày 25/01/2016 và các lời khai trong qúa trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc Đ và người đại diện theo ủy quyền bà Đào Thị Bích C trình bày:

Vào ngày 28/11/2013 ông Nguyễn Ngọc Đ có gây thương tích cho ông Nguyễn Đình H tỷ lệ thương tật 41% ở vùng mắt; ông Nguyễn Đình H cầm tô sành ném vào trán, thái dương của ông Đ gây thương tích cho ông Đ tỷ lệ 8% và ông Nguyễn Đình D là anh trai của ông H đã dùng sống dao phát cỏ phang vào chân phải của ông Đ gây tỷ lệ thương tật cho Đức 13%. Sau khi sự việc xảy ra ông Đ đã đi điều trị thương tích tại Bệnh viện II, tỉnh Lâm Đồng từ ngày 28/11/2013 đến ngày 09/12/2013 là 12 ngày. Do trước đây ông Đ không yêu cầu bồi thường trong vụ án hình sự nên hiện nay ông khởi kiện dân sự và yêu cầu ông Nguyễn Đình H (gây tỷ lệ thương tật 8%) và ông Nguyễn Đình D (gây tỷ lệ thương tật 13%) phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm số tiền là 53.008.000đ gồm các khoản:

- Tiền thuốc men điều trị 7.088.000đ;

- Tiền thu nhập của ông Đ bị mất trong thời gian nằm viện (từ ngày 28/11/2013 đến ngày 09/12/2013) là 12 ngày x 200.000đ/ 01 ngày = 2.400.000đ;

- Tiền thu nhập của ông Đ bị mất sau khi xuất viện về nhà không lao động được (từ ngày 09/12/2013 đến tháng 10/2014, trừ những ngày nghỉ lễ, nghỉ tết âm lịch và chủ nhật) là 180 ngày x 200.000đ/ 01 ngày = 36.000.000đ;

- Tiền thu nhập bị mất của người chăm sóc cho ông Đ nằm viện là 12 ngày x 150.000đ/ 01 ngày = 1.800.000đ;

- Tiền bồi dưỡng (tiền ăn và tiền sữa) cho ông Đ trong thời gian nằm viện là 12 ngày x 60.000đ/ ngày = 720.000đ;

- Tiền tổn thất về tinh thần cho ông Đ do bị ông H, ông D gây thương tích là 5.000.000đ.

Tổng cộng là 53.008.000đ (năm mươi ba triệu không trăm lẻ tám ngàn đồng). Ngoài ra, không có yêu cầu gì khác.

+ Bị đơn ông Nguyễn Đình H trình bày:

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 74/2015/HSST ngày 25/08/2015 của Tòa án nhân dân thành phố B đã xét xử Nguyễn Ngọc Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Tại phiên tòa sơ thẩm ông chỉ yêu cầu Nguyễn Ngọc Đ bồi thường chi phí thuốc men điều trị thương tích với số tiền 40.000.000đ, ngoài ra ông không yêu cầu ông Đ khoản bồi thường nào khác. Sau đó ông Đ đã bồi thường cho ông được 5.000.000đ tại phiên tòa sơ thẩm và 10.000.000đ tại phiên tòa phúc thẩm, tổng cộng là 15.000.000đ, còn lại 25.000.000đ thì đến nay ông Đ vẫn chưa bồi thường cho ông.

Nay ông Nguyễn Ngọc Đ yêu cầu ông và anh trai Nguyễn Đình D bồi thường số tiền 53.008.000đ thì ông không đồng ý bồi thường. Bởi vì trong vụ việc trên ông Đ gây thương tích cho ông nhưng vẫn chưa bồi thường hết số tiền chi phí điều trị và việc ông ném tô cơm về phía ông Đ là phản xạ tự nhiên khi Đ có hành vi cầm dao đuổi chém về phía ông, đây là hành vi phòng vệ chính đáng và tại phiên tòa do hai bên đã thỏa thuận ông Đ không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên ông cũng chỉ yêu cầu bồi thường số tiền thuốc là 40.000.000đ. Vì vậy, nay ông không đồng ý bồi thường thiệt hại cho ông Đ.

+ Bị đơn ông Nguyễn Đình D trình bày:

Ông là anh trai của ông Nguyễn Đình H, vào ngày 28/11/2013 khi thấy em trai mình là Nguyễn Đình H vô cớ bị Nguyễn Ngọc Đ cầm dao đuổi chém nên theo phản xạ tự nhiên ông đã dùng sống dao phát cỏ phang vào chân phải của Đ nhằm ngăn chặn hành vi tấn công của Đ, gây tỷ lệ thương tật cho Đ là 13%. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 74/2015/HSST ngày 25/08/2015 của Tòa án nhân dân  thành phố B đã xét xử Nguyễn Ngọc Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”, do hai bên thỏa thuận và ông Đ không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì nữa nên tại phiên tòa sơ thẩm em trai ông là Nguyễn Đình H chỉ yêu cầu ông Nguyễn Ngọc Đ bồi thường khoản chi phí thuốc men điều trị thương tích với số tiền 40.000.000đ, ngoài ra không yêu cầu Đ bồi thường thêm bất cứ khoản nào khác. Sau đó ông Đ đã bồi thường cho Hoàng được 5.000.000đ tại phiên tòa sơ thẩm và 10.000.000đ tại phiên tòa phúc thẩm, số tiền còn lại  thì đến nay Đ vẫn chưa bồi thường cho em trai ông.

Nay ông Nguyễn Ngọc Đ yêu cầu ông và em trai Nguyễn Đình H bồi thường số tiền 53.008.000đ thì ông không đồng ý bồi thường. Bởi vì H là em trai của ông đang bị Đ cầm dao đuổi chém nên ông có hành vi như trên xảy ra trong trạng thái “tinh thần bị kích động mạnh” và đã bị Cơ quan Công an thành phố B xử lý vi phạm hành chính, mặt khác trong vụ việc trên ông Đ cố ý gây thương tích cho em trai ông do vậy ông Đ là người có lỗi nên ông không đồng ý bồi thường bất cứ khoản tiền nào cho ông Đ.

Tòa án đã tiến hành không hòa giải được vào ngày 21/6/2016.

Tại phiên tòa hôm nay: Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Đào Thị Bích C và bị đơn ông Nguyễn Đình D có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn ông Nguyễn Đình H không đồng ý bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Ngọc Đ bất cứ khoản tiền nào.

Kiểm sát viên Viện kiểm nhân dân thành phố B phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghỉ nghị án như sau: Thực hiện đúng trình tự thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự qui định. Tuy nhiên, còn vi phạm thời hạn về việc thụ lý vụ án theo qui định tại Điều 191, 195 Bộ luật tố tụng dân sự chậm 01 tháng 08 ngày.

Về nội dung: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc Đ buộc anh Nguyễn Đình H bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm; Chấp nhận phần yêu cầu của ông Nguyễn Ngọc Đ buộc ông Nguyễn Đình D bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm với những chi phí hợp lý, thực tế cho ông Đ tổng cộng 6.987.809đ.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết qủa tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Xét về tố tụng: Người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn là bà Đào Thị Bích C và bị đơn là ông Nguyễn Đình D có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.

Xét yêu cầu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm của ông Nguyễn Ngọc Đ đối với ông Nguyễn Đình H thì thấy rằng: Nguyên nhân ông H gây ra thương tích cho ông Đ là xuất phát từ hành vi ông Đ cầm dao chém ông H, làm ông H bị rách giác mạc, củng mạc và thủy tinh thể, với tỉ lệ thương tật là 41%; Theo kết luận của tổ chức giám định pháp y thì mắt trái của ông H hiện nay đã bị mù, trong vụ án hình sự nêu trên, hành vi của ông Đ bị điều tra, truy tố, xét xử theo điểm a, i khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, trong đó điểm i khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự quy định “Có tính côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm”. Ông Đ là người biết rõ việc sử dụng dao là hung khí nguy hiểm chém vào vùng mặt người khác là hành vi hết sức nguy hiểm, sẽ gây ra thương tích hoặc cố tật nặng cho người khác thậm chí có thể tước đoạt tính mạng của họ nhưng ông Đ vẫn cố ý thực hiện. Đối với hành vi của ông Đ đã thể hiện tính chất côn đồ, bởi lẽ giữa ông Đ với ông H không hề có mâu thuẫn gì. Việc ông H ném tô cơm về phía ông Đ là do phản xạ tự nhiên, trong phạm vi phòng vệ chính đáng khi có người cầm dao chém về phía mình. Về phần bồi thường thiệt hại thì ông Đ phải có trách nhiệm bồi thường cho ông H số tiền 40.000.000đ tuy nhiên đến nay thì ông Đ mới chỉ bồi thường được 15.000.000đ, số tiền còn lại vẫn chưa bồi thường hết cho ông H. Từ những phân tích như trên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm của ông Nguyễn Ngọc Đ đối với ông Nguyễn Đình H.

Xét yêu cầu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm của ông Đ đối với ông Nguyễn Đình D thì thấy rằng:  Khi thấy ông H là em trai ông đang bị ông Đ cầm dao đuổi chém nên ông đã có hành có hành vi dùng sống dao phát cỏ phang vào chân phải của ông Đ, gây thương tích cho ông Đ tỷ lệ 13%, tại vụ án hình sự nêu trên ông Đ chưa yêu cầu bồi thường thiệt hại, nay ông Đ yêu cầu ông D bồi thường thiệt hại cho ông tương ứng với tỷ lệ thương tật là 13% là có cơ sở.

Tuy nhiên, đối với loại tranh chấp dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, theo qui định của Bộ luật dân sự và qui định tại tiểu mục 1.1, mục I, phần II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao, hướng dẫn áp dụng một số qui định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau: Phải có thiệt hại xảy ra, phải có hành vi trái pháp luật, phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật và phải có lỗi của người gây thiệt hại.

Trong trường hợp này, hành vi của ông D được thực hiện trong trạng thái “tinh thần bị kích động mạnh”, ông D hoàn toàn không có hành vi đánh trả lại ông Đ mà chỉ khống chế để tước hung khí nguy hiểm nhằm ngăn cản không cho ông Đ tiếp tục thực hiện hành vi đuổi chém ông H. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 74/2015/HSST ngày 25/08/2015 của Tòa án nhân dân thành phố B cũng nhận định tỷ lệ thương tật cho vết thương này của ông Đ (13%) cũng chưa đủ để xử lý ông D về tội “Cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, vì vậy cơ quan Điều tra đã ra quyết định xử lý hành chính. Từ đó, có đủ căn cứ để xác định việc ông D gây thương tích cho ông Đ là kết quả trực tiếp từ hành vi trái pháp luật (cầm dao đuổi chém) của ông Đ nên ông Đ cũng có lỗi một phần và phải chịu trách nhiệm một phần đối với thiệt hại do ông D gây ra. Theo qui định tại Điều 617 Bộ luật dân sự 2005 qui định về vấn đề bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi: “Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình...”, trong trường hợp này xét theo tỷ lệ lỗi, ông Đ phải chịu một phần thiệt hại tương ứng tỷ lệ 60% và ông D chịu một phần thiệt hại tương ứng tỷ lệ 40%, cụ thể được xem xét như sau:

- Xem xét đối với yêu cầu về khoản tiền thuốc và chi phí điều trị thương tích ông Đ yêu cầu là 7.088.000đ. Do ông Đ chỉ cung cấp được các hóa đơn, chứng từ của Bệnh viện II Lâm Đồng với tổng số tiền là 6.988.800đ, còn hóa đơn bán lẻ ngày 08/12/2013 của nhà thuốc Thiên A số tiền 100.000đ ông Đ không cung cấp được đơn thuốc theo chỉ định của Bác sĩ, nên chỉ có căn cứ chấp nhận một phần. Căn cứ vào mức độ lỗi và tỷ lệ thương tích 13%, số tiền thuốc và chi phí điều trị được chấp nhận là (6.988.800đ x 13%): 21% x 40 % = 1.730.560đ.

- Xem xét đối với yêu cầu về khoản tiền bồi dưỡng (tiền ăn và tiền sữa) cho ông Đ trong thời gian nằm viện (từ ngày 28/11/2013 đến ngày 09/12/2013) là 12 ngày x 60.000đ/ ngày = 720.000đ  thì: Theo quy định tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao thì mọi chi phí hợp lý cho việc bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại phải theo chỉ định của Bác sĩ nên yêu cầu này không có căn cứ chấp nhận.

- Xem xét đối với yêu cầu về khoản tiền thu nhập của ông Đ bị mất trong thời gian nằm viện (từ ngày 28/11/2013 đến ngày 09/12/2013) là 12 ngày x 200.000đ/ 01 ngày = 2.400.000đ thì: Ông Đ có cung cấp chứng cứ là một giấy xác nhận ngày 16/05/2016 có nội dung bà Trịnh Thị Thanh H - chủ cơ sở cửa sắt B xác nhận vào thời điểm tháng 08/2014, ông Đ có làm thợ sắt cho cửa hàng với mức lương là 200.000đ/01 ngày. Tuy nhiên, bản thân bà C là vợ ông Đ cũng là người đại diện theo ủy quyền của ông Đ trình bày, ông Đ là người lao động phổ thông cụ thể là làm thợ hàn sắt (ngày nào có việc thì đi làm, công việc không ổn định), nên chỉ tính mức tiền công lao động phổ thông hiện nay ở địa phương là 150.000đ/01 ngày; (12 ngày x 150.000đ/01 ngày = 1.800.000đ). Căn cứ vào mức độ lỗi và tỷ lệ thương tích 13%, số tiền thu nhập của ông Đ bị mất trong thời gian nằm viện được chấp nhận là (1.800.000đ x 13%) : 21% x 40% = 445.714đ.

- Xem xét yêu cầu đối với khoản tiền thu nhập của ông Đ bị mất sau khi ra viện là 180 ngày x 200.000đ/ 01 ngày = 36.000.000đ thấy rằng sau khi điều trị từ Bệnh viện II Lâm Đồng về ông Đ cần có thời gian hồi phục sức khỏe nên cần tính tiền thu nhập thực tế bị mất trong thời gian phục hồi cho ông Đ là phù hợp. Căn cứ vào mức độ lỗi và tỷ lệ thương tích 13%, số tiền thu nhập của ông Đ bị mất sau khi ra viện được chấp nhận là (30 ngày x 150.000đ/01 ngày x 13%): 21% x 40 % = 1.114.285đ.

- Xem xét yêu cầu về khoản tiền công của 01 người chăm sóc ông Đ nằm viện là 12 ngày x 150.000đ/ 01 ngày = 1.800.000đ; Việc ông Đ bị thương tích phải nằm viện, cần có người chăm sóc việc sinh hoạt hàng ngày cho ông Đ là phù hợp. Căn cứ vào mức độ lỗi và tỷ lệ thương tích 13%, khoản tiền công của một người chăm sóc trong thời gian ông Đ nằm viện được chấp nhận là (1.800.000đ x 13%) : 21% x 40 % = 445.714đ.

- Xem xét đối với yêu cầu bồi thường về tổn thất về tinh thần là 5.000.000đ: Tại cả hai bản án hình sự sơ thẩm số 74/2015/HSST ngày 25/08/2015 và bản án hình sự phúc thẩm số 05/2016/HSPT ngày 13/01/2016 tuyên ông Nguyễn Ngọc Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”, mặc dù giữa ông Đ và ông H không có mâu thuẫn hay thù oán gì nhưng ông Đ vẫn cố tình dùng dao chém vào vùng mặt ông H là hành vi hết sức nguy hiểm và thể hiện tính chất côn đồ, ông Đ vẫn chưa bồi thường hết số tiền 25.000.000đ còn lại cho ông H. Riêng đối với thương tích 13% của ông D gây ra cho ông Đ diễn ra trong trạng thái: “tinh thần bị kích động mạnh” và xét thấy trong trường hợp này ông D cũng có một phần lỗi. Căn cứ vào mức bồi thường tổn thất tinh thần qui định tại Điều 609 Bộ luật dân sự, xét về mức độ lỗi và tổn thất về tinh thần thực tế nên có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường về tổn thất tinh thần là 01 tháng lương cơ bản (1.150.000đ x 13%) : 21% x 40 % = 284.762đ.

Như vậy tổng số tiền yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm của ông Đ đối với ông D được chấp nhận là 4.021.035đ làm tròn thành 4.021.000đ (bốn triệu không trăm hai mươi mốt ngàn đồng).

Từ những phân tích nêu trên, đã có đủ cơ sở kết luận: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc Đ về việc: Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm đối với ông Nguyễn Đình H. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc Đ về việc: Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm đối với ông Nguyễn Đình D.

Xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghỉ nghị án là có căn cứ nên chấp nhận.

Xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về phần nội dung: Chấp nhận một phần.

Về án phí: Buộc ông Nguyễn Đình D phải chịu án phí DSST theo qui định của pháp luật. Ông Đ, ông H không phải chịu án án phí DSST.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

+ Căn cứ khoản 6 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Căn cứ Điều 604, 605, 606, 609, 617 và khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự.

+ Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao.

+ Áp dụng Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1/Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc Đ về việc: Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm đối với ông Nguyễn Đình H.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc Đ về việc: Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm đối với ông Nguyễn Đình D.

Buộc ông Nguyễn Đình D có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm cho ông Nguyễn Ngọc Đ tổng số tiền là 4.021.000đ (bốn triệu không trăm hai mươi mốt ngàn đồng).

2/Về án phí: Buộc Ông Nguyễn Đình D phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm là 201.000đ (hai trăm lẻ một ngàn đồng ).

3/ Quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc kể từ ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

4/ Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1112
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 11/2016/DS-ST ngày 20/07/2016 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm

Số hiệu:11/2016/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/07/2016
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;