Bản án 111/2021/DSST ngày 28/09/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 111/2021/DSST NGÀY 28/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 28 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đắk Song xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 181/2020/TLST-DS, ngày 13/5/2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2021/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 8 năm 2021; quyết định hoãn phiên tòa số 174/2021/QĐST-DS ngày 13 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN. Địa chỉ: Số 35 M, quận P, TP. Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn H – Giám đốc Phòng giao dịch Đắk Song. Có mặt.

Địa chỉ: Tổ M, thị trấn N, huyện P, tỉnh Đắk Nông.

Bị đơn: Ông Nguyễn Kh, bà Nguyễn Thị B – Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn M (nay là thôn 1), xã N, huyện P, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các văn bản khác trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ngày 07/03/2018 Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN – Chi nhánh Đăk Nông, phòng giao dịch Đăk Song ký hợp đồng cấp hạn mức thấu chi số: 01/2018/6277946/HĐTD với ông Nguyễn Kh và bà Nguyễn Thị B theo đó Ngân hàng đồng ý cho ông Kh, bà B vay số tiền 600.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, lãi suất 10%/năm sau đó được điều chỉnh theo hợp đồng. Để đảm bảo khoản vay, ngày 12/5/2014 ông Kh, bà B ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: 01/2014/6277946/HĐTC để thế chấp thửa đất số 61, tờ bản đồ số 151, diện tích 15.476m2; đất tọa lạc tại Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BG 937374 do UBND huyện Đăk Song cấp ngày 26/4/2014.

Từ thời điểm nhận nợ cho đến nay ông Kh, bà B không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, liên tiếp vi phạm các kỳ trả nợ theo hợp đồng. Qua nhiều lần thông báo, nhắc nhở nhưng ông Kh, bà B vẫn không có thiện chí trả nợ. Do đó Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Kh và bà Nguyễn Thị B phải trả số tiền nợ gốc 599.900.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm 28/9/2021 như sau:

tiền lãi phải trả 160.082.907 đồng; tiền lãi chậm trả 27.529.655 đồng. Tổng gốc và lãi 787.512.562 đồng.

Buộc ông Kh, bà B phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh sau ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả nợ xong theo lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng số tín dụng số: 01/2018/6277946/HĐTD ngày 07/03/2018.

Từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án có thẩm quyền xử lý theo thủ tục thi hành án đối với tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp số: 01/2014/6277946/HĐTC ngày 12/5/2014 Trường hợp số tiền thu được từ tài sản thế chấp và tài sản đảm bảo không đủ để thanh toán khoản nợ thì ông Kh, bà B phải tiếp tục trả số nợ còn lại cho đến khi thanh toán hết nợ cho Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN.

Đối với bị đơn ông Nguyễn Kh và bà Nguyễn Thị B: Quá trình giải quyết vụ án ông B, bà Kh không đến Tòa án để làm việc. Qua xác minh tại chính quyền địa phương xác định ông Nguyễn Kh và bà Nguyễn Thị B có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn M (nay là thôn 1), xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông, hiện nay ông Kh, bà B đã đi khỏi địa phương. Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng để đưa vụ án ra xét xử theo quy định.

Tại phiên tòa nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và về nội dung vụ án phát biểu như sau:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng quy định của pháp luật và việc thụ lý giải quyết vụ án đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng trong vụ án: Nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chấp hành chưa đúng theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Qua các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Nguyễn Kh và bà Nguyễn Thị B phải trả cho Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN số tiền nợ gốc 599.900.000 đồng và tiền lãi theo hợp đồng tín dụng các bên ký kết.

Buộc ông Kh, bà B phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh sau ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả nợ xong theo lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng số tín dụng số: 01/2018/6277946/HĐTD ngày 07/03/2018.

Từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án có thẩm quyền xử lý theo thủ tục thi hành án đối với tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp số: 01/2014/6277946/HĐTC ngày 12/5/2014 Trường hợp số tiền thu được từ tài sản thế chấp và tài sản đảm bảo không đủ để thanh toán khoản nợ thì ông Kh, bà B phải tiếp tục trả số nợ còn lại cho đến khi thanh toán hết nợ cho Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN.

Các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án: Bản sao y Hồ sơ pháp lý của Ngân hàng, hồ sơ Tín dụng, hồ sơ khách hàng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Kh và bà Nguyễn Thị B trả số tiền nợ gốc 599.900.000 đồng và tiền lãi theo hợp đồng tín dụng đã ký kết nên tranh chấp được xác định là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Nguyễn Kh, bà Nguyễn Thị B có nơi cư trú tại thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đắk Nông nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN và hợp đồng tín dụng các bên ký kết, HĐXX xét thấy: Ngày 07/03/2018 Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN – Chi nhánh Đăk Nông, phòng giao dịch Đăk Song ký hợp đồng cấp hạn mức thấu chi số: 01/2018/6277946/HĐTD với ông Nguyễn Kh và bà Nguyễn Thị B theo đó Ngân hàng đồng ý cho ông Kh, bà B vay số tiền 600.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, lãi suất 10%/năm sau đó được điều chỉnh theo hợp đồng. Để đảm bảo khoản vay, ngày 12/5/2014 ông Kh, bà B ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: 01/2014/6277946/HĐTC để thế chấp thửa đất số 61, tờ bản đồ số 151, diện tích 15.476m2;

đất tọa lạc tại Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BG 937374 do UBND huyện Đăk Song cấp ngày 26/4/2014.

[2.2] Từ thời điểm nhận nợ cho đến nay ông Kh, bà B không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, liên tiếp vi phạm các kỳ trả nợ theo hợp đồng. Qua nhiều lần thông báo, nhắc nhở nhưng ông Kh, bà B vẫn không có thiện chí trả nợ. Do đó Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Kh và bà Nguyễn Thị B phải trả số tiền nợ gốc 599.900.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm 28/9/2021 như sau: tiền lãi phải trả 160.082.907 đồng; tiền lãi chậm trả 27.529.655 đồng. Tổng gốc và lãi 787.512.562 đồng. Như vậy ông Kh, bà B đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết.

[3] Xét yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN: Xét hợp đồng thế chấp QSDĐ số: 01/2014/6277946/HĐTC ngày 12/5/2014 đối với thửa đất số 61, tờ bản đồ số 151, diện tích 15.476m2; đất tọa lạc tại Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BG 937374 do UBND huyện Đăk Song cấp ngày 26/4/2014. HĐXX xét thấy hợp đồng thế chấp được lập thành văn bản, các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc, hợp đồng được công chứng tại Văn phòng công chứng theo quy định của pháp luật quy định tại Điều 317, Điều 318, Điều 319 Bộ luật Dân sự 2015, nên hợp đồng đã phát sinh hiệu lực giữa các bên.

[3.1] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thành lập Hội đồng xem xét thẩm định tại chỗ đối với thửa đất số 61, tờ bản đồ số 151, diện tích 15.476m2; tọa lạc tại Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông. Qua xem xét thẩm định tại chỗ xác định thửa đất trên thực tế đúng với vị trí, tứ cận theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp. Vì vậy, HĐXX xét thấy yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN là có căn cứ nên được chấp nhận.

[3.2] Từ những nhận định trên, HĐXX xét thấy cần chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN. Buộc ông Nguyễn Kh và bà Nguyễn Thị B phải trả cho Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN số tiền gốc 599.900.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm 28/9/2021 như sau: tiền lãi phải trả 160.082.907 đồng; tiền lãi chậm trả 27.529.655 đồng. Tổng gốc và lãi 787.512.562 đồng.

Buộc ông Kh, bà B phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh sau ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả nợ xong theo lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng số tín dụng số: 01/2018/6277946/HĐTD ngày 07/03/2018.

Từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án có thẩm quyền xử lý theo thủ tục thi hành án đối với tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp số: 01/2014/6277946/HĐTC ngày 12/5/2014 Trường hợp số tiền thu được từ tài sản thế chấp và tài sản đảm bảo không đủ để thanh toán khoản nợ thì ông Kh, bà B phải tiếp tục trả số nợ còn lại cho đến khi thanh toán hết nợ cho Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN.

[4] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 3.000.000 đồng, do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên ông Nguyễn Kh, bà Nguyễn Thị B phải chịu toàn bộ chi phí trên. Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN đã nộp tạm ứng số tiền trên. Buộc ông Kh, bà B phải trả cho Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN 3.000.000 đồng.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Kh, bà Nguyễn Thị B phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm 35.500.502 đồng. Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN số tiền 17.086.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0005364 ngày 12/5/2021 tại Chi cục THA Dân sự huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên :

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 143; Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 91; Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 299; Điều 317; Điều 320; Điều 322; Điều 322; Điều 323; Điều 385; Điều 463; Điều 466; Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN.

1.1 Buộc ông Nguyễn Kh và bà Nguyễn Thị B phải trả cho Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN số tiền nợ gốc 599.900.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm 28/9/2021 như sau: tiền lãi phải trả 160.082.907 đồng; tiền lãi chậm trả 27.529.655 đồng. Tổng gốc và lãi 787.512.562 đồng.

1.2 Buộc ông Kh, bà B phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh sau ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả nợ xong theo lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng số tín dụng số: 01/2018/6277946/HĐTD ngày 07/03/2018.

1.3 Từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án có thẩm quyền xử lý theo thủ tục thi hành án đối với tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp số: 01/2014/6277946/HĐTC ngày 12/5/2014 1.4 Trường hợp số tiền thu được từ tài sản thế chấp và tài sản đảm bảo không đủ để thanh toán khoản nợ thì ông Kh, bà B phải tiếp tục trả số nợ còn lại cho đến khi thanh toán hết nợ cho Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN.

2. Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 3.000.000 đồng, do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận nên ông Nguyễn Kh, bà Nguyễn Thị B phải chịu toàn bộ chi phí trên. Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN đã nộp tạm ứng số tiền trên. Buộc ông Kh, bà B phải trả cho Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN 3.000.000 đồng.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Kh, bà Nguyễn Thị B phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm 35.500.502 đồng. Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP Đ T & PT VN số tiền 17.086.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0005364 ngày 12/5/2021 tại Chi cục THA Dân sự huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết hoặc tống đạt hợp lệ.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 111/2021/DSST ngày 28/09/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:111/2021/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;