TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 111/2020/HS-PT NGÀY 13/11/2020 VỀ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN
Ngày 13-11-2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 107/2020/TLPT-HS ngày 13 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo Ngô Văn C và Phạm Thị K, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 47/2020/HS-ST ngày 01/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
- Các bị cáo kháng cáo:
1. Ngô Văn C, sinh năm 1971 tại tỉnh Ninh Bình; nơi ĐKHKTT: Bon S, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở trước khi phạm tội: Bon N, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Ngô Văn X và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Phạm Thị K và 03 con; bị bắt tạm giam ngày 05-10-2019. Có mặt.
2. Phạm Thị K, sinh năm 1985 tại tỉnh Ninh Bình; nơi ĐKHKTT: Bon S, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở trước khi phạm tội: Bon N, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Phạm Văn T và bà Nguyễn Thị H; có chồng là Ngô Văn C và 03 con; tại ngoại. Có mặt.
- Người bào chữa cho các bị cáo Ngô Văn C, Phạm Thị K Luật sư H, Văn phòng luật sư H, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Nông; địa chỉ: Tổ 2, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông – Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Bùi Xuân K; đia chỉ: Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Có mặt.
2. Ông Nguyễn Doanh N; địa chỉ: Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Có mặt.
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Hữu T; địa chỉ: Phòng Kinh tế hạ tầng huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
2. Ông K; địa chỉ: Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
3. Ông Phương Ngọc D; địa chỉ: Số 278, đường T, tổ 4, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo quyết định của Bản án dân sự phúc thẩm số 45/2016/DSPT ngày 21-9- 2016 và Thông báo sửa chữa, bổ sung Bản án số 55/TB-TA ngày 07-11-2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông quyết định buộc Ngô Văn C và Phạm Thị K phải trả lại cho ông Nguyễn Tấn T quyền sử dụng đất có diện tích là 404,1m2, tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng và di dời những tài sản khác đã tạo lập trên diện tích đất tranh chấp. Vị trí đất thể hiện trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 01003, thửa đất số 24, tờ bản đồ số 03, tại bon N, xã Q, huyện Đ, do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 31-8-2012 cho ông Nguyễn Tấn T.
Do Ngô Văn C và Phạm Thị K không tự nguyện thi hành án nên ngày 14-02- 2017 ông Nguyễn Tấn T có đơn yêu cầu thi hành án. Ngày 23-02-2017, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ giao Quyết định thi hành án số 131/QĐ-CCTHADS ngày 22/02/2017 cho người phải thi hành án là C và K. C và K nhận Quyết định thi hành án nhưng không ký vào biên bản. Quá trình giải quyết thi hành án, Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ đã phối hợp với chính quyền địa phương xã Q nhiều lần gặp, động viên, thuyết phục, tạo điều kiện cho vợ chồng C và K chấp hành bản án theo quy định của pháp luật nhưng C và K không tự nguyện thi hành án, không hợp tác, không ký vào các biên bản bản làm việc, biên bản xác minh điều kiện thi hành án vì cho rằng Tòa án xét xử không đúng (C, K chỉ nhận chuyển nhượng đất với ông Vi Văn H từ năm 2007 và cho rằng mình không lấn chiếm đất của ông T).
Ngày 18-12-2017, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ ra Quyết định cưỡng chế thi hành án số 03/QĐ-CCTHADS. Ngày 19-12-2017, Chấp hành viên làm thủ tục giao Quyết định thi hành án dân sự cho C, K. C và K nhận quyết định cưỡng chế thi hành án nhưng không ký vào biên bản. Trong thời gian chờ tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên nhiều lần động viên, thuyết phục nhưng C và K không tự nguyện thi hành án, không thực hiện việc tháo dỡ các công trình xây dựng, di dời tài sản đã tạo lập trên diện tích đất lấn chiếm và gửi nhiều đơn xin tạm hoãn thực hiện việc cưỡng chế. Tuy nhiên, các đơn xin tạm hoãn không có căn cứ theo quy định của pháp luật.
Ngày 10-7-2019 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ ban hành Thông báo số 155/TB-CCTHADS về việc cưỡng chế theo Quyết định cưỡng chế thi hành án số 03/QĐ-CCTHADS ngày 18-12-2017. Đến ngày 18-7-2019, Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ tổ chức Đoàn cưỡng chế gồm: Ông Bùi Xuân K, chức vụ Chi cục trưởng (đồng thời là Chấp hành viên chủ trì việc cưỡng chế), bà Hoàng Thị V, chức vụ Phó Chi cục trưởng, ông Nguyễn Doanh N (Thư ký). Đại diện các phòng thuộc Ủy ban nhân dân huyện Đ và lực lượng Công an bảo vệ việc cưỡng chế. Đoàn đã tiến hành cưỡng chế tháo dỡ công trình xây dựng và tài sản trên diện tích đất thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 01003, thửa đất số 24, tờ bản đồ số 03, tọa lạc tại bon N. Khi Đoàn cưỡng chế đang làm nhiệm vụ thì C cầm dao đứng chặn ở cửa ra vào đe dọa “Nếu ai vào nhà sẽ chém”, một người đàn ông tên S (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) từ trong nhà đổ tạt xăng ra cửa, C mở khí ga đe dọa đốt nhà, hất xăng vào những người tham gia cưỡng chế. Trong lúc này, K cũng có hành vi chửi bới, lăng mạ đoàn cưỡng chế, dùng tay tát vào mặt ông K, xô bàn, giật biên bản của ông N không cho Đoàn cưỡng chế thi hành nhiệm vụ. Do có sự chống đối quyết liệt, hung hãn của C và K, Đoàn cưỡng chế đã phải dừng lại không thể thực hiện được việc cưỡng chế.
Ngày 19-7-2019, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ chuyển văn bản kiến nghị khởi tố đối với Ngô Văn C và Phạm Thị K về tội “Chống người thi hành công vụ” kèm theo hồ sơ ban đầu đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ.
Sau khi có kết quả xác minh, ngày 30-9-2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Ngô Văn C và Phạm Thị K về tội “Chống người thi hành công vụ”. Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra xác định hành vi của C và K đã phạm vào tội “Không chấp hành án” do đó đã ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án, thay đổi quyết định khởi tố bị can về tội “Không chấp hành án”.
Tại Bản án số 47/2020/HSST ngày 01-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Ngô Văn C và Phạm Thị K phạm tội “Không chấp hành án”.
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 380; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Ngô Văn C 02 năm tù, thời hạn tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05-10-2019.
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 380; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Thị K 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo trong thời hạn luật định cho các bị cáo biết.
Ngày 07 và 08-9-2020 các bị cáo Ngô Văn C và Phạm Thị K kháng cáo kêu oan và cho rằng các bị cáo không phạm vào tội “Không chấp hành án” và đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử phúc thẩm theo hướng hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo khai nhận có hành vi như nội dung bản án sơ thẩm, nhưng cho rằng mình không phạm tội “Không chấp hành án”.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, phân tích các tình tiết của vụ án, việc xét xử cá bị cáo tội “Không chấp hành án” là chưa đảm bảo vì các bị cáo chưa bị xử phạt hành chính và biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật chưa được thực hiện trên thực tế, hành vi chống đối việc cưỡng chế thi hành án có dấu hiệu của tội khác nặng hơn, do vậy cần hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại cho đúng tội danh. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử: căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, hủy bản án sơ thẩm số 47/2020/HSST ngày 01-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ.
Các bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hủy bản án của cấp sơ thẩm.
Người bào chữa cho các bị cáo phát biểu quan điểm: Thống nhất với đề nghị của Đại diện viện kiểm sát, thực tế Quyết định cưỡng chế thi hành án số 03 mới đang được thi hành, C và K cũng chưa bị xử lý hành chính nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo không phạm tội “Không chấp hành án” và hủy bản án sơ thẩm số 47/2020/HSST ngày 01-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Các bị cáo Ngô Văn C và Phạm Thị K kháng cáo trong thời hạn luật định nên Hội đồng xét xử xem xét lại theo trình tự phúc thẩm là đúng theo quy định tại Điều 344, 345 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2]. Xét thấy, Ngô Văn C và Phạm Thị K là người phải thi hành án, theo quyết định của Bản án số 45/2016/DS-PT ngày 21-9-2016.
Ngày 22/02/2017, Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ ban hành Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 131/QĐ-CCTHADS, sau nhiều lần vận động, thuyết phục, nhưng Ngô Văn C và Phạm Thị K vẫn không tự nguyện chấp hành và không ký các biên bản. Ngày 18-12-2017, (BL 263) Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ ban hành quyết định cưỡng chế số 03/QĐ-CCTHADS, và lập biên bản giao cho C và K vào ngày 19-12-2017, C và K nhận quyết định nhưng không ký biên bản; Sau đó do xác minh thấy điều kiện hoàn cảnh của gia đình C và K đang có con nhỏ, khó khăn nên cơ quan thi hành án đã dừng việc thi hành án đến ngày 10-7-2019 mới ban hành Thông báo số 155/TB-CCTHADS về việc cưỡng chế thi hành án. Ngày 18-7- 2019, Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ tiến hành biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật thì C và K có hành vi chống đối, xúc phạm và đe dọa đoàn cưỡng chế đang thực hiện biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật như C có hành vi tạt xăng vào đoàn cưỡng chế, mở bình ga ra dọa đốt, cầm dao đe dọa đoàn cưỡng chế (BL 295, 298, 451, 453) và K có hành vi dùng tay tát vào mặt ông Đoàn Xuân K, giật xé biên bản cưỡng chế do ông N lập. Đoàn cưỡng chế phải dừng việc cưỡng chế đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với C và K (BL 289).
Như vậy, mặc dù các bị cáo là người có điều kiện Thi hành án như xác minh của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, nhưng các bị cáo chưa bị xử phạt hành chính về hành vi không chấp hành án, chưa bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật, trên thực tế thì Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ đang tiến hành biện pháp cưỡng chế, thì C và K có hành vi chống đối. Do vậy, hành vi của các bị cáo chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Không chấp hành án” nên Hội đồng xét xử xét thấy cần hủy bản án của cấp sơ thẩm để điều tra, truy tố về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, của Luật sư và kháng cáo của các bị cáo là có căn cứ cần chấp nhận.
[3]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo Ngô Văn C và Phạm Thị K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Ngô Văn C và Phạm Thị K, hủy Bản án sơ thẩm số 47/2020/HSST ngày 01-9-2020 của Tòa án nhân dân huyện Đ. Chuyển hồ sơ cho cấp sơ thẩm điều tra xét xử lại.
2. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm f khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Các bị cáo Ngô Văn C và Phạm Thị K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 111/2020/HS-PT ngày 13/11/2020 về tội không chấp hành án
Số hiệu: | 111/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về