Bản án 111/2020/HS-PT ngày 12/09/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 111/2020/HS-PT NGÀY 12/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

 Ngày 12/9/2020 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 144/2020/TLPT-HS ngày 18/6/2020 đối với bị cáo Phạm Văn H1, Dương Văn T, Dương Văn H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Thị T1 do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 37/2020/HSST ngày 13/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Dương Văn T. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh năm 1969; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn C, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Dìu; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 5/10;Họ và tên bố: Dương Văn T9 chết); Họ và tên mẹ: Lương Thị M9, sinh năm 1939; Gia đình có 06 anh, chị, em, bản thân là thứ ba; Họ và tên vợ: Tăng Thị T1, sinh năm 1970. Hiện ở thôn C, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Bị can có 02 con, con lớn sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 1993; Nhân thân:

 Bản án số 86/2006/HSST ngày 30/11/2006, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xử 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, phạt 3.000.000 đồng và 50.000 đồng án phí về tội đánh bạc. Chấp hành xong án phí, tiền phạt 15/10/2007;

Bản án số 71/2009/HSST ngày 28/10/2009, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xử 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, phạt bổ sung 7.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí về tội đánh bạc. Chấp hành xong tiền phạt, án phí ngày 09/8/2010;

Bản án số 13/2015/HSST ngày 10/02/2015, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xử 10 tháng tù, phạt bổ sung 6.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí về tội đánh bạc;

Bản án số 133/2015/HSST ngày 05/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phúc thẩm xử y án sơ thẩm và 200.000đ án phí. Chấp hành xong án phạt tù ra trại ngày 26/4/2016;chấp hành xong tiền phạt, án phí ngày 10/9/2017;

Bản án số 22/2017/HSST ngày 23/5/2017, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xử 04 tháng 09 ngày tù, trả tự do tại tòa, phạt bổ sung 4.000.000 đồng được miễn án phí về tội đánh bạc.Chấp hành xong tiền phạt ngày 13/7/2017; Tiền án, tiền sự: Không có; Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2019 - 28/02/2020. Hiện đang bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Dương Văn H. Tên gọi khác: Không có. Giới tính: Nam. Sinh năm 1988; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn C, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Dìu; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 12/12;Họ và tên bố: Dương Văn Th8, sinh năm 1966; Họ và tên mẹ: Tăng Thị L8, sinh năm 1968; Gia đình có 03 anh, em, bản thân là thứ nhất;Họ và tên vợ: Phan Thị C8, sinh năm 1989. Hiện ở thôn C, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Bị can có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2014;Nhân thân:

Bản án số 57/2015/HSST ngày 04/9/2015, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xử 04 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, phạt bổ sung 3.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí về tội đánh bạc. Chấp hành xong tiền phạt, án phí ngày 15/12/2015;Tiền án: Bản án số 22/2017/HSST ngày 23/5/2017, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xử 04 tháng tù, phạt bổ sung 4.000.000 đồng được miễn án phí về tội đánh bạc. Chấp chấp hành xon tiền phạt ngày 19/6/2018; chấp hành xong án phạt tù ngày 28/12/2017.Tiền sự: Không có; Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2019 - 13/01/2020. Hiện đang bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh. (Có mặt tại phiên tòa)

3. Họ và tên: Nguyễn Văn L. Tên gọi khác: Không có. Giới tính: Nam. Sinh năm 1984; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn Đ, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Họ và tên bố: Nguyễn Văn L7, sinh năm 1960; Họ và tên mẹ: Trần Thị M7, sinh năm 1960;Gia đình có 04 anh, em, bản thân là thứ nhất; Họ và tên vợ: Lê Thị H7, sinh năm 1990. Hiện ở thôn Đ, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc GiangBị can có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2012; Nhân thân:

Bản án số 315/2005/HSST ngày 22/7/2005, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và 50.000đ án phí về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong án phí ngày 06/01/2006; Bản án số 79/2014/HSST ngày 10/9/2014, Tòa án nhân dân huyện Lục Nam xử 08 tháng tù, phạt bổ sung 3.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí. Chấp hành xong án phạt tù ra trại ngày 28/4/2015; chấp hành xong tiền phạt, án phí ngày 10/11/2014; Tiền án, tiền sự: Không có; Bị cáo bị truy nã, đầu thú, tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/01/2020 - 20/01/2020. Hiện đang bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh. (Có mặt tại phiên tòa)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 45 phút ngày 14/12/2019, Công an huyện Lạng Giang kiểm tra hành chính nhà Phạm Văn H1, sinh năm 1963 ở thôn C, xã H, huyện L phát hiện: Phạm Văn H1 (là chủ nhà) cùng với Dương Văn T, sinh năm 1969; Nguyễn Thị T1, sinh năm 1973; Hoàng Văn T2, sinh năm 1991; Dương Văn H, sinh năm 1988; Tăng Văn T3, sinh năm 1977; Trần Quốc V, sinh năm 1987; Tăng Thị T4, sinh năm 1973; Tăng Văn Ch, sinh năm 1990; Tăng Văn C1, sinh năm 1973 cùng ở thôn C, xã H, huyện L; Nguyễn Văn K, sinh năm 1995 ở thôn C, xã T, huyện L; Trần Phú Ph, sinh năm 1983 ở thôn T, xã T, huyện L; Đoàn Văn L1, sinh năm 1979 ở thôn H, xã B, huyện L; Nguyễn Văn L, sinh năm 1984 ở thôn Đ, xã Đ, huyện L; Đỗ Thị H4, sinh năm 1974 ở số nhà 21, phố T, thị trấn Đ, huyện L có hành vi đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền bằng hình thức đánh “xóc đĩa”, sử dụng bộ bát, đĩa và 04 quân vị hình chữ nhật được làm từ thanh tre, có một mặt màu đen, một mặt màu vàng tại phòng khách.

Quá trình kiểm tra còn có Tăng Thị T1, sinh năm 1970; Từ Thị H5, sinh năm 1971; Trần Thị X, sinh năm 1981 cùng ở thôn C, xã H, huyện L; Dương Văn Ch2, sinh năm 1970 ở thị tứ B, huyện L; Lăng Thị Y, sinh năm 1978 ở thôn N, xã H, huyện P, tỉnh Cao Bằng có mặt ở đó nhưng không tham gia đánh bạc. Công an huyện đã lập biên bản kiểm tra hành chính, thu giữ vật chứng, đưa các đối tượng về Cơ quan điều tra để làm việc.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu tại phòng khách: 01 thảm nỉ; 02 chiếu cói cuộn lại bên trong có 6.500.000 đồng; 01 xô nhựa có chữ ALEX, bên trong có: 01 đĩa sứ, 04 quân vị hình chữ nhật làm từ thanh tre, có một mặt màu đen, một mặt màu vàng và 100.000 đồng; 01 điện thoại NOKIA màu xanh đen; 01 xô nhựa có chữ VINACOAL bên trong có: 01 bát sứ, 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đen tím; trên mặt ghế ở cạnh tường bên trái hướng từ cửa nhà đi vào có 01 mảnh giấy được làm từ vỏ cây thuốc lá Thăng Long bị xé rách, ở mặt màu trắng có 04 ô, trong đó có 02 ô được tô màu đen, 02 ô để màu trắng (gọi là bảng vị).

Kiểm tra thu giữ tiền và tài sản trên người các đối tượng gồm: Phạm Văn H1 1.800.000 đồng ở túi quần bên phải phía trước; Dương Văn T 4.000.000 đồng ở túi áo khoác ngực mặt trong, 8.800.000 đồng ở túi quần phía sau bên phải; Đoàn Văn L1 4.700.000 đồng ở túi quần bên phải phía trước, 01 điện thoại IPHONE màu trắng và 01 điện thoại IPHONE màu đen; Tăng Thị T4 2.600.000 đồng và 01 điện thoại NOKIA màu đỏ; Đỗ Thị H4 01 ví da màu đen và 01 điện thoại NOKIA; Hoàng Văn T2 12.600.000 đồng và 01 điện thoại IPHONE màu trắng; Nguyễn Thị T1 01 điện thoại IPHONE màu hồng, 01 điện thoại NOKIA màu đen; Nguyễn Văn L 9.700.000 đồng ở túi quần phía trước bên phải, 01 ví da màu đen bên trong ví có 740.000 đồng; Tăng Văn T3 500.000 đồng; Trần Quốc V 01 điện thoại SAMSUNG; Dương Văn H 3.400.000 đồng ở túi quần phía trước bên phải, 01 ví da màu đen ở túi quần phía trước bên trái bên trong có 8.400.000 đồng, 01 điện thoại IPHONE màu đen và 01 điện thoại SAMSUNG màu đen; Nguyễn Văn K 10.000.000 đồng ở túi quần bên trái phía trước, 01 ví da màu đen bên trong có 4.250.000 đồng ở túi quần bên phải phía trước và 01 điện thoại SAMSUNG màu đen; Tăng Văn Ch 80.000 đồng ở túi quần sau bên phải; Trần Phú Ph 400.000 đồng, 01 điện thoại IPHONE màu trắng, 01 ví da bên trong có 01 chứng minh thư mang tên Phượng; Tăng Thị T1 330.000 đồng; Dương Văn Ch2 1.700.000 đồng, 01 ví da màu nâu và 01 điện thoại NOKIA màu đen (BL: 66 - 71).

Tại Cơ quan điều tra các bị can khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 14/12/2019, Dương Văn T, Hoàng Văn T2, Tăng Văn T3, Trần Quốc V, Tăng Văn Ch, Dương Văn H đến nhà Phạm Văn H1 chơi. Sau đó mọi người rủ nhau đánh bạc bằng hình thức đánh “xóc đĩa” thì Phạm Văn H1 đồng ý cho mọi người đánh bạc tại phòng khách để thu tiền, H1 lấy bát, đĩa sứ, làm 04 quân vị hình chữ nhật từ thanh tre, có một mặt màu đen, một mặt màu vàng và 01 bảng vị được làm từ vỏ cây thuốc lá Thăng Long. Dương Vă Hòa gọi điện rủ Đoàn Văn L1, Nguyễn Văn L đến nhà H1 đánh bạc. Nguyễn Văn L gọi điện rủ Đỗ Thị H4, Trần Phú Ph đến nhà H1 đánh bạc. Đoàn Văn L1 gọi điện cho Nguyễn Văn K rủ đến nhà H1 đánh bạc. Sau đó Nguyễn Thị T1, Tăng Thị T4, Tăng Văn C1 đến nhà H1 tham gia đánh bạc. Dương Văn T là người xóc cái, Dương Văn H là người cầm bảng vị để đánh, Tăng Văn C1 làm hồ lỳ (lấy tiền người thua trả cho người thắng bạc), Nguyễn Văn K chung tiền với Đoàn Văn L1 đánh bạc. Các bị can Dương Văn T, Phạm Văn H1, Hoàng Văn T2, Tăng Văn T3, Trần Quốc V, Tăng Văn Ch, Dương Văn H, Đoàn Văn L1, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn K, Trần Phú Ph, Đỗ Thị H4, Nguyễn Thị T1, Tăng Thị T4, Tăng Văn C1 bắt đầu đánh bạc từ khoảng 13 giờ 30 phút ngày 14/12/2019. Quá trình đánh bạc Phạm Văn H1 bảo mỗi người chơi bỏ ra 100.000 đồng đến 300.000 đồng, kết quả H1 thu được 1.200.000 đồng.

Các bị can thống nhất đánh bạc bằng hình thức “xóc đĩa”, cụ thể như sau: Người xóc cái cho 04 quân vị vào bộ bát, đĩa và xóc cái. Việc đánh bạc được quy định có hai cửa chẵn và cửa lẻ, những người tham gia đánh bạc ngồi thành hai hàng dọc hai bên chiếu cói, quy định bên tay trái người xóc cái là cửa lẻ, bên tay phải là cửa chẵn, xóc cái xong người chơi tuỳ chọn đặt tiền đánh mức thấp nhất là 50.000 đồng, cao nhất tùy người xóc cái đồng ý hay không, sau đó người xóc cái tính tiền chênh lệch ở hai cửa chẵn, lẻ rồi hô bán chẵn hoặc bán lẻ, nếu người chơi mua lại thì người xóc cái sẽ mở bát để tính thắng thua; nếu không có người mua lại cửa thì yêu cầu người chơi đặt tiền cửa hơn hoặc ít đi để cân cửa rồi mở bát. Khi mở bát ra nếu 04 quân vị cùng xấp hoặc cùng ngửa, 02 xấp hoặc 02 ngửa (04 trắng, 04 vàng hoặc 02 trắng, 02 vàng) thì người đặt tiền cược ở cửa chẵn thắng, người xóc cái được thu tiền của người đặt cửa lẻ trả tiền cho người đặt tiền ở cửa chẵn tương ứng số tiền họ đã đặt; ngược lại, nếu 04 quân vị có 01 quân vị có mặt khác màu với 03 quân còn lại (01 trắng, 03 vàng hoặc 01 vàng, 03 trắng) thì người đặt tiền cược ở cửa lẻ thắng. Tỷ lệ thắng thua là 1/1.

Đối với chơi bảng vị thì người chơi đặt tiền cược vào một trong 04 ô của bảng vị làm từ vỏ cây thuốc lá Thắng Long (một ô có 04 hình tô màu đen, một ô có 04 hình không tô màu tương ứng với cửa chẵn; một ô có 01 hình không tô màu và 03 hình tô màu; một ô có 01 hình tô màu và 03 hình không tô màu tương ứng với cửa lẻ). Nếu ván chơi mà cửa chẵn thắng thì người chơi sẽ được ăn tiền theo tỷ lệ 1 ăn 10. Nếu ván chơi cửa lẻ thắng thì người chơi sẽ được ăn tiền theo tỷ lệ 1 ăn 3, sau khi tính thắng thua và trả tiền xong sẽ bắt đầu ván chơi tiếp theo.

Các bị can đánh bạc đến khoảng 14 giờ 45 phút cùng ngày thì bị Công an huyện Lạng Giang kiểm tra hành chính, phát hiện đánh bạc nên đã thu giữ toàn bộ vật chứng.

Về số tiền đem theo sử dụng vào việc đánh bạc và số tiền thu giữ tại chiếu bạc, các bị can khai nhận:

- Phạm Văn H1 khai: Chuẩn bị bát, đĩa, quân vị, bảng vị, cho các đối tượng đánh bạc tại phòng khách thu được 1.200.000 đồng tiền hồ, đánh 01 ván bị thua 100.000 đồng. Khi bị bắt giao nộp 1.800.000 đồng, trong đó có 1.100.000 đồng là tiền thu hồ dùng đánh bạc, 700.000 đồng không dùng đánh bạc;

- Dương Văn T khai: Xóc cái đánh bạc từ đầu với mọi người, khi đánh bạc có 7.200.000 đồng, bỏ ra 3.200.000 đồng đánh bạc. Khi bị bắt đang thắng bạc giao nộp 8.800.000 đồng ở túi quần phía sau bên phải là tiền đánh bạc, 4.000.000 đồng ở túi ngực bên trong áo khoác không dùng đánh bạc;

- Đoàn Văn L1 khai: Trước khi đánh bạc thống nhất với Khu mỗi người bỏ ra 10.000.000 đồng chung tiền đánh bạc nhưng khi đánh bạc Lục chỉ có 5.000.000 đồng dùng đánh, quá trình đánh thắng bạc đưa cho Khu giữ 10.000.000 đồng, sau đó thua hết tiền đã lấy 10.000.000 đồng Khu cầm dùng đánh tiếp. Khi bị bắt còn 4.700.000 đồng là tiền đánh bạc;

- Nguyễn Văn K khai: Không trực tiếp đánh bạc mà góp 10.000.000 đồng cho Lục để Lục đánh bạc. Sau đó Lục bỏ tiền của Lục ra đánh bạc thì thắng đưa lại cho Khu 10.000.000 đồng nhưng sau đó thua hết tiền đã lấy lại đánh tiếp. Khi bị bắt Khu giao nộp 10.000.000 đồng là tiền sẽ bỏ ra chung tiền đánh bạc với Lục, còn lại 4.250.000 đồng không dùng đánh bạc;

- Nguyễn Văn L khai: Khi tham gia đánh bạc có 11.440.000 đồng, bỏ ra 1.000.000 đồng đánh bạc, nộp 200.000 đồng tiền hồ, lúc bị bắt để tiền tại chiếu, số tiền 10.440.000 đồng để trong túi quần phía trước bên phải không dùng đánh bạc;

- Dương Văn H khai: Trước khi đánh bạc có khoảng 12.000.000 đồng, bỏ ra 1.000.000 đồng đánh bạc, sử dụng bảng vị đánh bạc với mọi người, khi bị bắt đang thua 100.000 đồng, bị thu giữ 11.800.000 đồng trong đó có 900.000 đồng là tiền đánh bạc, 10.900.000 đồng không dùng đánh bạc;

- Tăng Văn Ch khai: Có 300.000đ dùng đánh bạc, khi bị bắt thua hết tiền, giao nộp 80.000 đồng ở túi quần phía sau bên phải không dùng đánh bạc;

- Nguyễn Thị T1 khai: Có 400.000 đồng dùng đánh bạc, khi bị bắt thua hết tiền;

- Tăng Thị T4 khai: Khi đánh bạc có 2.650.000 đồng, đánh 01 ván cửa lẻ thua 50.000 đồng, khi bị bắt giao nộp 2.600.000 đồng không dùng đánh bạc;

- Tăng Văn T3 khai: Có 550.000 đồng dùng đánh bạc, khi bị bắt giao nộp 500.000 đồng là tiền dùng đánh bạc;

- Trần Phú Ph khai: Có 2.200.000 đồng dùng đánh bạc, nộp 200.000 đồng tiền hồ, khi bị bắt còn 400.000 đồng là tiền đánh bạc;

- Đỗ Thị H4 khai: Có 300.000 đồng dùng đánh bạc, nộp 100.000 đồng tiền hồ, khi bị bắt thua hết tiền;

- Hoàng Văn T2 khai: Khi đánh bạc có 12.000.000 đồng, bỏ ra 2.000.000 đồng đánh bạc, nộp 200.000 đồng tiền hồ. Khi bị bắt đang thắng bạc, giao nộp 12.600.000 đồng, trong đó có 2.600.000 đồng là tiền đánh bạc, 10.000.000 đồng không dùng đánh bạc;

- Trần Quốc V khai: Có 100.000 đồng dùng đánh bạc, khi bị bắt thua hết tiền;

- Tăng Văn C1 khai: Làm hồ lỳ lấy tiền người thua trả cho người thắng.

Tổng số tiền thu tại chiếu bạc và số tiền các bị can khai dùng vào việc đánh bạc xác định là: 35.600.000 đồng (ba lăm triệu sáu trăm ngàn đồng).

Đối với các tài sản gồm: 330.000 đồng của Tăng Thị T1; 1.700.000 đồng, 01 ví da màu nâu và 01 điện thoại NOKIA màu đen của Dương Văn Ch2; 01 chứng minh thư mang tên Trần Phú Ph. Quá trình điều tra xác định không liên quan hành vi đánh bạc, ngày 26/02/2020 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.

Vật chứng vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong bên ngoài có chữ “Tiền tang vật vụ Phạm Văn H1 đánh bạc và gá bạc” bên trong có: 78.570.000 đồng; 01 túi nilon màu trắng được niêm phong bên trong có 13 chiếc điện thoại di động thu giữ của các bị can; 02 chiếu cói, 01 thảm nỉ, 01 xô nhựa nhãn hiệu ALEX, 01 xô nhựa nhãn hiệu VINACOOL, 01 đĩa sứ, 01 bát sứ, 04 quân vị, 01 mảnh giấy làm từ vỏ cây thuốc lá Thăng Long (bảng vị), 05 ví da, Cơ quan điều tra chuyển cùng hồ sơ vụ án để giải quyết.

Đối với Tăng Thị T1, Dương Văn Ch2, Lăng Thị Y, Trần Thị X, Từ Thị H5 quá trình điều tra đã làm rõ không tham gia đánh bạc nên không xem xét xử lý.

Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2020/HSST ngày 13/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Dương Văn T, Đoàn Văn L1, Tăng Văn Ch, Dương Văn H, Tăng Văn T3, Nguyễn Văn K, Nguyễn Văn L, Nguyễn Thị T1, Tăng Thị T4, Đỗ Thị H4, Tăng Văn C1, Hoàng Văn T2, Trần Quốc V, Trần Phú Ph phạm tội “Đánh bạc”, bị cáo Phạm Văn H1 phạm tội “Đánh bạc” và “Gá bạc” .

2.1. Áp dụng khoản 1 Điều 321;điểm a, b, d khoản 1, khoản 3 Điều 322 Điều 38, Điều 17; Điều 58, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Văn H1 07 tháng tù về tội “Đánh bạc”; 01( một) năm 02 ( một) tháng tù về tội “Gá bạc”; Tổng hợp hình phạt của 02 tội là 01( một) năm 09 ( chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, nhưng được trừ đi thời hạn bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2019 đến 12/3/2020 vào thời gian chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000đồng sung quỹ nhà nước.

2.2. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, Điều 38, Điều 17, Điều 58, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Dương Văn T 14 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, nhưng được trừ đi thời hạn bị tạm giữ, tạm giam 15/12/2019 đến 28/02/2020 vào thời gian chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000đồng sung quỹ nhà nước.

2.4 Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, Điều 38, Điều 17, Điều 58, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với các bị cáo Dương Văn H.

2.4.1.Xử phạt bị cáo Dương Văn H 11 tháng tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án nhưng được trừ đi thời hạn bị tạm giữ, tạm giam ngày 15/12/2019 đến 13/01/2020 vào thời gian chấp hành án. Phạt bổ sung bằng tiền 10.000.000đ sung quỹ nhà nước.

2.5. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, Điều 38, Điều 17, Điều 58, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án nhưng được trừ đi thời hạn bị tạm giữ, tạm giam ngày 02/01/2020 đến 20/01/2020,vào thời gian chấp hành án. Phạt bổ sung bằng tiền 10.000.000đ sung quỹ nhà nước.

2.6. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, Điều 38, Điều 17, Điều 58, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Nguyễn Thị T1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T1 07 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án nhưng được trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam ngày 15/12/2019 đến 10/01/2020 vào thời gian chấp hành án. Phạt bổ sung bằng tiền 10.000.000đ sung quỹ nhà nước.

Ngoài ra bản án còn tuyên phạt với các bị cáo khác, tuyên phần xử lý vật chứng, phần án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 25/5/2020 bị cáo Phạm Văn H1 kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung: xin cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 25/5/2020 bị cáo Dương Văn H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Thị T1 cùng nộp đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung: xin cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo.

Ngày 26/5/2020 bị cáo Dương Văn T kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung: xin cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 08/8/2020 bị cáo H1 nộp đơn rút toàn bộ kháng cáo, ngày 11/9/2020 bị cáo Nguyễn Thị T1 nộp đơn xin rút toàn bộ kháng cáo. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã ra thông báo về việc rút kháng cáo đối với bị cáo Phạm Văn H1, Nguyễn Thị T1. Bản án sơ thẩm số 37/2020/HSST ngày 13/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang có hiệu lực với các bị cáo từ ngày ra thông báo rút kháng cáo.

Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Dương Văn T, Dương Văn H, Nguyễn Văn L thay đổi nội dung kháng cáo. Các bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm hình phạt, rút kháng cáo xin hưởng án treo với lý do: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn, số tiền các bị cáo không tham gia vào đánh bạc được giữ lại để đảm bảo thi hành án lớn hơn số tiền phạt bị cáo phải nộp theo bản án sơ thẩm tuyên, tại phiên tòa các bị cáo đồng ý Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: án sơ thẩm xử các bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan. Trong quá trình điều tra, truy tố xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, đề nghị HĐXX căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo Dương Văn T, Dương Văn H, Nguyễn Văn L.

Bị cáo Dương Văn T, Dương Văn H, Nguyễn Văn L không có tranh luận gì.

Bị cáo Dương Văn T nói lời sau cùng đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Dương Văn H nói lời sau cùng đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Văn L nói lời sau cùng đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Dương Văn T, Dương Văn H, Nguyễn Văn L đã nộp theo đúng các quy định của pháp luật nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp cần được chấp nhận để xem xét.

[2] Qua quá trình xét xử thấy đủ cơ sở xác định: Hồi 14 giờ 45 phút ngày 14/12/2019, tại nhà Phạm Văn H1, sinh năm 1963 ở thôn C, xã H, huyện L, Phạm Văn H1 đã có hành vi đánh bạc và chứa chấp cho 14 đối tượng gồm: Dương Văn T, Đoàn Văn L1, Tăng Văn Ch, Dương Văn H, Tăng Văn T3, Nguyễn Văn K, Nguyễn Văn L, Nguyễn Thị T1, Tăng Thị T4, Đỗ Thị H4, Tăng Văn C1, Hoàng Văn T2, Trần Quốc V, Trần Phú Ph đánh bạc bằng hình thức đánh “Xóc đĩa”, sử dụng bộ bát, đĩa và 04 quân vị hình chữ nhật được làm từ thanh tre, có một mặt màu đen, một mặt màu vàng thì bị Công an huyện Lạng Giang kiểm tra hành chính phát hiện thu giữ toàn bộ vật chứng. Tổng số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc là 35.600.000 đồng.

Bị cáo Dương Văn T, Dương Văn H, Nguyễn Văn L thừa nhận toàn bộ hành vi như án sơ thẩm nêu là đúng, không oan. Bản án hình sự sơ thẩm số 37 /2020/HSST ngày 13/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử bị cáo Dương Văn T, Dương Văn H, Nguyễn Văn L về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[3] Xét kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo của bị cáo Dương Văn T, Dương Văn H, Nguyễn Văn L thấy: hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính trên địa bàn.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Dương Văn T năm 2006, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xử 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, phạt 3.000.000 đồng và 50.000 đồng án phí về tội đánh bạc, năm 2009 Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xử 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, phạt bổ sung 7.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí về tội đánh bạc , năm 2015 Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xử 10 tháng tù, phạt bổ sung 6.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí về tội đánh bạc, năm 2017, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xử 04 tháng 09 ngày tù. Bị cáo Dương Văn H năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xử 04 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, năm 2017, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xử 04 tháng tù, phạt bổ sung 4.000.000 đồng được miễn án phí về tội đánh bạc. Bị cáo Nguyễn Văn L năm 2005 Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, năm 2014, Tòa án nhân dân huyện Lục Nam xử 08 tháng tù.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Dương Văn H ngày 28/12/2017, Dương Văn H mới chấp hành xong bản án số 22/2017/HSST ngày 23/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Lạng chưa được xóa án tích thì ngày 14/12/2019 lại có hành vi đánh bạc nên lần phạm tội này là “Tái phạm” nên bị áp dụng điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS; Bị cáo Thành, Hòa đầu thú nên được áp dụng khoảng 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Dương Văn T có bố được tặng thưởng huân huy chương nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 521 Bộ luật hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo Dương Văn T đã nộp 10.200.000 đồng tiền phạt và án phí. Các bị cáo Dương Văn T, Dương Văn H đều bị cơ quan công an thu giữ số tiền nhiều hơn số tiền các bị cáo bị phạt, tại phiên tòa các bị cáo trình bày xin được khâu trừ số tiền đó vào tiền phạt bổ sung.

Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cáo Dương Văn T, Dương Văn H, Nguyễn Văn L để phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm:

Do được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo cáo Dương Văn T, Dương Văn H, Nguyễn Văn L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[6] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[1]. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo cáo Dương Văn T, Dương Văn H, Nguyễn Văn L và sửa bản án sơ thẩm.

- Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Dương Văn T, Dương Văn H, Nguyễn Văn L phạm tội “Đánh bạc”.

- Về hình phạt:

+ Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, Điều 38, Điều 17, Điều 58, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Dương Văn T 11 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án, nhưng được trừ đi thời hạn bị tạm giữ, tạm giam 15/12/2019 đến 28/02/2020 vào thời gian chấp hành án.

+ Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, Điều 38, Điều 17, Điều 58, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với các bị cáo Dương Văn H. Xử phạt bị cáo Dương Văn H 08 tháng tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án nhưng được trừ đi thời hạn bị tạm giữ, tạm giam ngày 15/12/2019 đến 13/01/2020 vào thời gian chấp hành án.

+ Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, Điều 38, Điều 17, Điều 58, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án nhưng được trừ đi thời hạn bị tạm giữ, tạm giam ngày 02/01/2020 đến 20/01/2020,vào thời gian chấp hành án.

[2]. Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo Dương Văn T, Dương Văn H, Nguyễn Văn L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3]. Xác nhận bị cáo Dương Văn T đã nộp 6.000.000 đồng theo biên lai số AA/2015/0002467 ngày 11/9/2020 của chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 111/2020/HS-PT ngày 12/09/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:111/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;