Bản án 111/2020/HNGĐ-ST ngày 15/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 111/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 40/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 130/2020/QĐ-ST ngày 29 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1982; địa chỉ: Thôn TL, xã ĐL, huyện TL, thành phố Hải Phòng.

- Bị đơn: Anh Phạm Anh T, sinh năm 1981; địa chỉ: xã ĐL, huyện TL, thành phố Hải Phòng; hiện cư trú tại: Ba Lan.

Chị Nguyễn Thị H có mặt; anh Phạm Anh T vắng mặt không có lý do

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 21/02/2020, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được sự đồng ý của hai bên gia đình, có tổ chức lễ cưới theo phong tục Việt Nam và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐL, huyện TL, thành phố Hải Phòng vào ngày 16/10/2006. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chị thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm. Anh T nhiều lần đi làm việc dài hạn tại nước ngoài, khi ở Việt Nam cũng làm ăn xa nhà nên vợ chồng không có sự quan tâm, gắn bó, chia sẻ. Hai con chung đều do một mình chị H chăm sóc, nuôi dưỡng, anh T không phụ giúp gì. Từ năm 2018 đến nay, anh T chưa về Việt Nam và cũng không liên lạc hỏi thăm vợ con. Chị H được biết anh T đi làm việc tại Ba Lan nhưng cũng hay sang làm việc ở Séc còn địa chỉ cụ thể ở đâu, chị H không rõ. Nay, chị H thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Anh T.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Anh T có 02 con chung tên là Phạm Thị Như Q, sinh ngày 16/7/2007 và Phạm Anh K, sinh ngày 09/11/2012. Chị H đề nghị được nuôi cả 02 con đến năm 18 tuổi và không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Anh T không có tài sản chung, không nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với anh Phạm Anh T:

Anh Phạm Anh T vắng mặt tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa đã công bố lý do đương sự vắng mặt, công bố tóm tắt nội dung vụ án và tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Theo Công văn số 4241/QLXNC-P5 ngày 27/3/2020 của Cục Quản lý Xuất nhập cảnh - Bộ Công an, anh Phạm Anh T, sinh ngày 01/01/1981, khai địa chỉ ở xã ĐL, Tân Lập, huyện TL, thành phố Hải Phòng đã xuất nhập cảnh 09 lần, xuất cảnh gần nhất ngày 04/3/2019, hiện chưa có thông tin nhập cảnh về nước. Sau khi thụ lý, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho bà Phạm Thị Th là mẹ đẻ của anh Phạm Anh T. Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của ông Phạm Văn V và bà Phạm Thị Th, là bố, mẹ đẻ của anh Phạm Anh T thể hiện: Hiện nay, anh T đang ở Ba Lan nhưng thường xuyên đi làm tại Cộng hòa Séc và nhiều nước khác nên gia đình không biết địa chỉ cụ thể của anh T ở đâu, anh T vẫn thường xuyên gọi điện và liên lạc về gia đình. Gia đình ông, bà đã thông báo cho anh T về việc xin ly hôn của chị H, về việc Tòa án giao Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa, anh T đã biết và có ý kiến trao đổi lại là không đồng ý ly hôn với chị H do anh T nghĩ đến các con.

Do chị Nguyễn Thị H đề nghị không tiến hành hòa giải theo quy định tại khoản 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án được.

Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng:

- Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Anh T trên cơ sở tự nguyện đã đăng ký kết hôn vào ngày 16/10/2006 tại UBND xã ĐL, huyện TL, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn, do anh Phạm Anh T thường xuyên công tác tại nước ngoài, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng do bất đồng quan điểm, không liên lạc, quan tâm đến gia đình, vợ con, từ năm 2018 anh T không về Việt Nam. Nhận thấy, hôn nhân không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T. Về con chung: Anh, chị có 02 con chung tên là Phạm Thị Như Q, sinh ngày 16/7/2007 và Phạm Anh K, sinh ngày 09/11/2012, chị H đề nghị được nuôi 02 con chung và không yêu cầu cấp dưỡng. Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H; cụ thể: Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Phạm Anh T. Về con chung: Giao 02 con chung là cháu Phạm Thị Như Q và cháu Phạm Anh K cho chị H nuôi dưỡng và không giải quyết vấn đề cấp dưỡng do chị H không yêu cầu. Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu nên đề nghị Tòa án không giải quyết. Về án phí: Chị H phải chịu án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị H, hiện đang cư trú tại thành phố Hải Phòng có đơn xin ly hôn anh Phạm Anh T hiện đang sinh sống tại Ba Lan, theo quy định tại khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Bị đơn là anh Phạm Anh T được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐL, huyện TL, thành phố Hải Phòng vào ngày 16/10/2006, theo quy định tại Điều 9, Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Theo lời khai của chị Nguyễn Thị H tại phiên tòa và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Sau khi kết hôn, anh chị phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, khác biệt về lối sống, anh T thường xuyên đi làm việc xa nhà, không quan tâm, chăm sóc, gắn bó với vợ và các con, tình cảm gia đình không còn, không thể đoàn tụ với nhau. Như vậy, chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị H và anh T đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị H xin ly hôn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Phạm Anh T.

[4] Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Anh T có 02 con chung tên là Phạm Thị Như Q, sinh ngày 16/7/2007 và Phạm Anh K, sinh ngày 09/11/2012, hiện nay đang ở với chị H. Khi ly hôn, chị H đề nghị được nuôi dưỡng cả 02 con cho đến khi các con đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con của chị H là chính đáng, phù hợp với với nguyện vọng của 02 con của anh chị; hiện tại anh T không có mặt tại Việt Nam để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu nuôi con và cấp dưỡng nuôi con của chị H.

[5] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí ly hôn sơ thẩm:

[6] Chị Nguyễn Thị H là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo của các đương sự:

[7] Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Anh T được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 4 Điều 207, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 273, điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Phạm Anh T.

2. Về con chung: Giao 02 con chung tên là Phạm Thị Như Q, sinh ngày 16 tháng 7 năm 2007 và Phạm Anh K, sinh ngày 09 tháng 11 năm 2012 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con, chị Nguyễn Thị H không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở, người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Anh T không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2010/3947 ngày 24 tháng 02 năm 2020 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị H đã nộp đủ.

5. Về quyền kháng cáo của các đương sự:

Chị Nguyễn Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Phạm Anh T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 111/2020/HNGĐ-ST ngày 15/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:111/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;